Orange County (Bình Sa)- - Kỷ niệm một năm Nhà Văn Nguyễn Đức Lập qua đời, Nhà báo Du Miên, Giám Đốc Thư Viện Việt Nam, Nhóm Thân Hữu và Bào Huynh của Nhà Văn Nguyễn Đức Lập là Nhà Thơ Trạch Gầm (Nguyễn Đức Trạch) cho phát hành Tập truyện “Người Sau Cùng”
Buổi phát hành sách sẽ được tổ chức vào lúc 11 giờ trưa Chủ Nhật ngày 26 tháng 02 năm 2017 tại phòng sinh hoạt Thư Viện Việt Nam số 10872 Westminster Ave Suite# 214-215, Garden Grove CA 92843.
Ban tổ chức trân trọng kính mời qúy Niên trưởng, qúy Chiến hữu, thân hữu, qúy cơ quan truyền thông và đồng hương vui lòng dành chút thì giờ đến tham dự buổi phát hành sách và cũng để tưởng niệm một nhà văn đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam Hải Ngoại nhất là về phương diện bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc. Nhà Văn Nguyễn Đức Lập là một trong những người đã đứng ra thành lập Thư Viện Việt Nam tại hải ngoại.
Viết về “Người Sau Cùng” nhà văn Vương Trùng Dương đã cho biết: Vào giữa thập niên 80, sau khi ấn hành tập thơ Những Đêm Không Ngủ, nhà văn Nguyễn Đức Lập viết truyện dài feuilleton Người Sau Cùng trên tuần báo Tin Việt ở Little Saigon. Lúc đó tác giả chưa xử dụng computer vì vậy sau khi tờ báo phổ biến Người Sau Cùng, anh em trong tòa soạn đã cắt từng trang báo để lưu trữ làm món quà lưu niệm.
Trải qua ba thập niên, món quà lưu niệm nầy bị thất lạc. Sau khi nhà văn Nguyễn Đức Lập qua đời, anh em cố gắng tìm và may thay Người Sau Cùng được tìm thấy và ấn hành nhân ngày giỗ lần thứ nhất vào hạ tuần tháng 2 năm 2017.
Trong phần Thay Lời Tựa, bào huynh của tác giả, nhà thơ Trạch Gầm viết: “Thận trọng cùng chữ nghĩa. Anh làm sao bằng em, thế nên dù biết Người Sau Cùng đã thất lạc một trang cuối, anh đành để vậy. Sẽ mong độc giả sẽ là người cấm viết… tiếp em phần thất lạc nầy”.
Tác phẩm Người Sau Cùng gồm 15 chương. Dày 438 do KV Printing trình bày và ấn hành vào thượng tuần tháng Hai năm 2017..
Bối cảnh câu chuyện xảy ra tại miệt vườn ở Nam Bộ sau khi Cộng Sản thống trị đất nước.
“Nguyên vào khoảng năm 1973, có một ông mục sư, nhân theo chương trình khẩn hoang lập ấp của chính phủ, đã dắt một số tín đồ xuống đây, phá rừng đốt rẫy, lập nên ấp Phước Lập nầy. Dân ở đây là dân tứ chiếng, nhưng nhiều nhứt là dân ở miền Trung, lánh nạn cộng sản vào Nam sanh sống. Cầm đầu đám nầy là gã Hai Sữa. Lão từ miền Trung vào Sài Gòn, ở tại Ngã Tư Bảy Hiền, làm nghề bán sữa đậu nành, nên mới có tên là Hai Sữa. Lão Hai Sữa xin làm tín đồ của ông mục sư và rất sốt sắng trong mọi công việc mà ông nầy giao phó. Từ từ, lão mới kéo nguyên một đám bà con vây cánh, xuống chiếm hết cả ba mươi lô đất ở giữa ấp và gọi luôn khu ấy là lô ba mươi. Vụ chia đất chia đai trong ấp làm cho ông mục sư phải điên đầu vì tuy là con chiên như nhau, nhưng ai cũng muốn lô đất của mình phải gồm đủ nhiều ưu điểm hơn người khác. Và công cuộc phân chia đất đai chưa ra đâu thì đùng một cái, cộng sản ào vào miền Nam”.
Trong lúc tranh tối tranh sáng nầy Hai Sữa làm chủ tịch ấp. Lão trở thành “nhân vật” quan trọng trong đám dân ngu đen để “lên lớp” con đường cách mạng. Hai Sữa lớn lối trong ấp nhưng về nhà thì bị mụ vợ xem thường, lão nói mụ vợ “chưa giác ngộ cách mạng” thì mụ phản pháo “Ông thì còm cọp từ sáng sớm tới khuya không đem về được một giọt dầu hôi hay một cây diêm quẹt để làm thuốc... Lúc đầu lão Hai Sữa còn lớn tiếng rầy mụ vợ là chưa giác ngộ cách mạng, không biết phấn đấu vượt qua trở ngại trong khi nhà nước còn gặp khó khăn. Nhưng riết rồi lão phải ngậm câm mỗi khi mụ vợ phàn nàn vì miếng khoai, miếng củ mà lão nuốt vô hàng ngày là do mụ vợ lão dang nắng dầm sương mới có được. Chớ lão có nhổ được bụi cỏ nào trong vườn đâu”...
Hầu hết những nhân vật trong tác phẩm nầy đều có “nickname” Tư Hường, Tám Nhiều, Ba Xôi, Tư Chim, Sáu Liệt, Tư Đới, Hai Độ, Ba Đờn, Tám Định, Năm Giao, hay còn gọi là Năm Xe Lam vì lão lái xe lam chạy đường Quán Chim - Phú Mỹ, Sáu Minh, Hai Cưỡng, Năm Lộc… mụ Tám Báu, mụ Tư Mập, mụ Tư Chim, mụ Bảy Trinh, mụ Bốn Tra…
Tác giả phác họa “Bức tranh vân cẩu, vẽ người tang thương” (Cung Oán Ngâm Khúc) như thực trạng đám dân trong ấp: “Ai thấy sự “hồ hởi, phấn khởi” của họ cũng không khỏi thắc mắc. Như mụ Bảy Trinh là một. Mụ là người đồng hương với lão Hai Sữa. Mụ sống trong ấp với một thằng con lên mười bốn. Thằng nầy bị bịnh “phong xù”, người teo riết, mặt nhăn nheo như khỉ, không biết nói, không biết khóc, lúc nào mặt cũng cười cười. Hai mẹ con mụ sống trong một căn chòi tranh lụp xụp ở cuối lô ba mươi… Sinh kế của mụ là đi lượm dây khoai bán cho những nhà có nuôi bò, đi xắn măng, đi đào củ chụp, củ mài hoặc đi đào cỏ mướn… Vậy mà mụ Bảy Trinh lại tích cực với cách mạng không có chỗ chê. Theo mụ kể thì thành tích cách mạng của mụ cũng đâu thua kém gì lão Hai Sữa. Hồi chín năm, mụ cũng đã “lừng lẫy” một thời ở Liên Khu Năm, Nam Ngãi - Bình Phú... Chỉ có một điều trở ngại duy nhứt cho con đường tiến thân của mụ là mụ dốt đặc cán mai, bao nhiêu lớp “chống nạn mù chữ” cũng không giúp được mụ ký được cái tên Trinh của mụ. Mụ vẫn còn phải đánh một cái dấu chữ thập mỗi khi cần phải ký tên. Thực ra, cái chuyện mù chữ cũng chẳng trở ngại gì cho mụ bao nhiêu. Vì chủ trương “ưu việt” của đảng đâu có cần cán bộ phải giỏi giang chữ nghĩa. Mù hai mắt từ hồi mới đẻ như như lão Tám Tri ở Vĩnh Trị còn làm bí thư chi bộ đảng được mà… Mụ rất hăng hái trong việc phát biểu ý kiến tại các phiên họp, tuy mỗi lần mụ đưa tay xin nói, lão Hai Sữa đều cau mặt. Nhưng đồng bào thì thích thú ra mặt vì đôi khi mụ ca tụng chánh quyền cách mạng mà người ta cứ tưởng mụ chưởi cha Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng…”.
Hình ảnh gia đình cách mạng như Sáu Liệt: “Vợ chồng Sáu Liệt còn có bốn đứa con nữa. Hai thằng con lớn, một đứa lên mười bốn, một đứa mười hai, thì đầu tắt mặt tối cả ngày. Chúng làm thuê, làm mướn và đôi khi đi nhổ trộm khoai lang, khoai mì để kiếm thức ăn cho gia đình. Hai đứa nầy là học trò ruột của Định... Chàng thường khuyên chúng nó không nên trộm cắp của người khác, nhưng chúng nó nói, không đi ăn trộm, ba chúng đánh chết...
Gia đình lão Sáu Liệt như vậy đó, nhưng lão dường như chẳng để ý đến, mà tối ngày chỉ lo “phục vụ cách mạng”. Lão Hai Sữa thường đề cao lão Sáu Liệt là người có “nhiệt tình cách mạng”. Lão Sáu Liệt thường đeo một cây súng carbine cũ, chẳng biết là có đạn hay không, để đi tuần tra khắp các nẻo đường trong ấp. Lão nói là lão đi canh chừng bọn gian phi trộm cắp, để bảo vệ an ninh cho đồng bào… Bà Tám Báu nói bóng nói gió rằng lão Sáu Liệt đừng đi tuần tra còn khá. Lão mà đeo súng đi chừng nào, thì khoai bắp trong rẫy càng bị mất nhiều hơn”.
Biết bao chuyện lùm xùm giữa các “đồng chí nửa mùa” với nhau, bới móc, chưởi bới, tranh cãi chày cối xảy ra hằng ngày, hằng đêm hội họp.
Trong hoản cảnh cơ cực như vậy, dân trong ấp trông đợi vụ mùa, thế nhưng “Mùa gặt hái chưa xong mà đồng bào trong ấp cứ phải hội họp triền miên. Những lần họp nầy không do lão Hai Sữa chủ tọa mà do các cán bộ từ trên huyện Châu Thành về. Họ xuống ấp để giải thích cho đồng bào về nghĩa vụ phải bán lương thực cho nhà nước… Khắp cả ấp, đi đâu người ta cũng bàn bạc về cái chuyện phải bán lương thực cho nhà nước....
Truyện rất gay cấn và điển hình. Đây là một truyện có giá trị phổ quát để nhìn lại lịch sử một thời ở VN.
Nhà văn Nguyễn Đức Lập được hấp thụ ngôn ngữ miền Nam từ bà Ngoại nên trong các tác phẩm của anh thuần túy với cách xử dụng văn phong Nam Bộ. Trong tác phẩm nầy, tác giả lại chuyển trong các mẫu đối thoại theo giọng miền Trung.
“Người Sau Cùng đã thất lạc một trang cuối” và cũng hình dung được hình ảnh Định là người sau cùng rút lui khi “một cánh quân không chịu nằm yên, bị phác giác!”.
Buổi phát hành sách sẽ được tổ chức vào lúc 11 giờ trưa Chủ Nhật ngày 26 tháng 02 năm 2017 tại phòng sinh hoạt Thư Viện Việt Nam số 10872 Westminster Ave Suite# 214-215, Garden Grove CA 92843.
Ban tổ chức trân trọng kính mời qúy Niên trưởng, qúy Chiến hữu, thân hữu, qúy cơ quan truyền thông và đồng hương vui lòng dành chút thì giờ đến tham dự buổi phát hành sách và cũng để tưởng niệm một nhà văn đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam Hải Ngoại nhất là về phương diện bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc. Nhà Văn Nguyễn Đức Lập là một trong những người đã đứng ra thành lập Thư Viện Việt Nam tại hải ngoại.
Viết về “Người Sau Cùng” nhà văn Vương Trùng Dương đã cho biết: Vào giữa thập niên 80, sau khi ấn hành tập thơ Những Đêm Không Ngủ, nhà văn Nguyễn Đức Lập viết truyện dài feuilleton Người Sau Cùng trên tuần báo Tin Việt ở Little Saigon. Lúc đó tác giả chưa xử dụng computer vì vậy sau khi tờ báo phổ biến Người Sau Cùng, anh em trong tòa soạn đã cắt từng trang báo để lưu trữ làm món quà lưu niệm.
Trải qua ba thập niên, món quà lưu niệm nầy bị thất lạc. Sau khi nhà văn Nguyễn Đức Lập qua đời, anh em cố gắng tìm và may thay Người Sau Cùng được tìm thấy và ấn hành nhân ngày giỗ lần thứ nhất vào hạ tuần tháng 2 năm 2017.
Trong phần Thay Lời Tựa, bào huynh của tác giả, nhà thơ Trạch Gầm viết: “Thận trọng cùng chữ nghĩa. Anh làm sao bằng em, thế nên dù biết Người Sau Cùng đã thất lạc một trang cuối, anh đành để vậy. Sẽ mong độc giả sẽ là người cấm viết… tiếp em phần thất lạc nầy”.
Tác phẩm Người Sau Cùng gồm 15 chương. Dày 438 do KV Printing trình bày và ấn hành vào thượng tuần tháng Hai năm 2017..
Bối cảnh câu chuyện xảy ra tại miệt vườn ở Nam Bộ sau khi Cộng Sản thống trị đất nước.
“Nguyên vào khoảng năm 1973, có một ông mục sư, nhân theo chương trình khẩn hoang lập ấp của chính phủ, đã dắt một số tín đồ xuống đây, phá rừng đốt rẫy, lập nên ấp Phước Lập nầy. Dân ở đây là dân tứ chiếng, nhưng nhiều nhứt là dân ở miền Trung, lánh nạn cộng sản vào Nam sanh sống. Cầm đầu đám nầy là gã Hai Sữa. Lão từ miền Trung vào Sài Gòn, ở tại Ngã Tư Bảy Hiền, làm nghề bán sữa đậu nành, nên mới có tên là Hai Sữa. Lão Hai Sữa xin làm tín đồ của ông mục sư và rất sốt sắng trong mọi công việc mà ông nầy giao phó. Từ từ, lão mới kéo nguyên một đám bà con vây cánh, xuống chiếm hết cả ba mươi lô đất ở giữa ấp và gọi luôn khu ấy là lô ba mươi. Vụ chia đất chia đai trong ấp làm cho ông mục sư phải điên đầu vì tuy là con chiên như nhau, nhưng ai cũng muốn lô đất của mình phải gồm đủ nhiều ưu điểm hơn người khác. Và công cuộc phân chia đất đai chưa ra đâu thì đùng một cái, cộng sản ào vào miền Nam”.
Trong lúc tranh tối tranh sáng nầy Hai Sữa làm chủ tịch ấp. Lão trở thành “nhân vật” quan trọng trong đám dân ngu đen để “lên lớp” con đường cách mạng. Hai Sữa lớn lối trong ấp nhưng về nhà thì bị mụ vợ xem thường, lão nói mụ vợ “chưa giác ngộ cách mạng” thì mụ phản pháo “Ông thì còm cọp từ sáng sớm tới khuya không đem về được một giọt dầu hôi hay một cây diêm quẹt để làm thuốc... Lúc đầu lão Hai Sữa còn lớn tiếng rầy mụ vợ là chưa giác ngộ cách mạng, không biết phấn đấu vượt qua trở ngại trong khi nhà nước còn gặp khó khăn. Nhưng riết rồi lão phải ngậm câm mỗi khi mụ vợ phàn nàn vì miếng khoai, miếng củ mà lão nuốt vô hàng ngày là do mụ vợ lão dang nắng dầm sương mới có được. Chớ lão có nhổ được bụi cỏ nào trong vườn đâu”...
Hầu hết những nhân vật trong tác phẩm nầy đều có “nickname” Tư Hường, Tám Nhiều, Ba Xôi, Tư Chim, Sáu Liệt, Tư Đới, Hai Độ, Ba Đờn, Tám Định, Năm Giao, hay còn gọi là Năm Xe Lam vì lão lái xe lam chạy đường Quán Chim - Phú Mỹ, Sáu Minh, Hai Cưỡng, Năm Lộc… mụ Tám Báu, mụ Tư Mập, mụ Tư Chim, mụ Bảy Trinh, mụ Bốn Tra…
Tác giả phác họa “Bức tranh vân cẩu, vẽ người tang thương” (Cung Oán Ngâm Khúc) như thực trạng đám dân trong ấp: “Ai thấy sự “hồ hởi, phấn khởi” của họ cũng không khỏi thắc mắc. Như mụ Bảy Trinh là một. Mụ là người đồng hương với lão Hai Sữa. Mụ sống trong ấp với một thằng con lên mười bốn. Thằng nầy bị bịnh “phong xù”, người teo riết, mặt nhăn nheo như khỉ, không biết nói, không biết khóc, lúc nào mặt cũng cười cười. Hai mẹ con mụ sống trong một căn chòi tranh lụp xụp ở cuối lô ba mươi… Sinh kế của mụ là đi lượm dây khoai bán cho những nhà có nuôi bò, đi xắn măng, đi đào củ chụp, củ mài hoặc đi đào cỏ mướn… Vậy mà mụ Bảy Trinh lại tích cực với cách mạng không có chỗ chê. Theo mụ kể thì thành tích cách mạng của mụ cũng đâu thua kém gì lão Hai Sữa. Hồi chín năm, mụ cũng đã “lừng lẫy” một thời ở Liên Khu Năm, Nam Ngãi - Bình Phú... Chỉ có một điều trở ngại duy nhứt cho con đường tiến thân của mụ là mụ dốt đặc cán mai, bao nhiêu lớp “chống nạn mù chữ” cũng không giúp được mụ ký được cái tên Trinh của mụ. Mụ vẫn còn phải đánh một cái dấu chữ thập mỗi khi cần phải ký tên. Thực ra, cái chuyện mù chữ cũng chẳng trở ngại gì cho mụ bao nhiêu. Vì chủ trương “ưu việt” của đảng đâu có cần cán bộ phải giỏi giang chữ nghĩa. Mù hai mắt từ hồi mới đẻ như như lão Tám Tri ở Vĩnh Trị còn làm bí thư chi bộ đảng được mà… Mụ rất hăng hái trong việc phát biểu ý kiến tại các phiên họp, tuy mỗi lần mụ đưa tay xin nói, lão Hai Sữa đều cau mặt. Nhưng đồng bào thì thích thú ra mặt vì đôi khi mụ ca tụng chánh quyền cách mạng mà người ta cứ tưởng mụ chưởi cha Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng…”.
Hình ảnh gia đình cách mạng như Sáu Liệt: “Vợ chồng Sáu Liệt còn có bốn đứa con nữa. Hai thằng con lớn, một đứa lên mười bốn, một đứa mười hai, thì đầu tắt mặt tối cả ngày. Chúng làm thuê, làm mướn và đôi khi đi nhổ trộm khoai lang, khoai mì để kiếm thức ăn cho gia đình. Hai đứa nầy là học trò ruột của Định... Chàng thường khuyên chúng nó không nên trộm cắp của người khác, nhưng chúng nó nói, không đi ăn trộm, ba chúng đánh chết...
Gia đình lão Sáu Liệt như vậy đó, nhưng lão dường như chẳng để ý đến, mà tối ngày chỉ lo “phục vụ cách mạng”. Lão Hai Sữa thường đề cao lão Sáu Liệt là người có “nhiệt tình cách mạng”. Lão Sáu Liệt thường đeo một cây súng carbine cũ, chẳng biết là có đạn hay không, để đi tuần tra khắp các nẻo đường trong ấp. Lão nói là lão đi canh chừng bọn gian phi trộm cắp, để bảo vệ an ninh cho đồng bào… Bà Tám Báu nói bóng nói gió rằng lão Sáu Liệt đừng đi tuần tra còn khá. Lão mà đeo súng đi chừng nào, thì khoai bắp trong rẫy càng bị mất nhiều hơn”.
Biết bao chuyện lùm xùm giữa các “đồng chí nửa mùa” với nhau, bới móc, chưởi bới, tranh cãi chày cối xảy ra hằng ngày, hằng đêm hội họp.
Trong hoản cảnh cơ cực như vậy, dân trong ấp trông đợi vụ mùa, thế nhưng “Mùa gặt hái chưa xong mà đồng bào trong ấp cứ phải hội họp triền miên. Những lần họp nầy không do lão Hai Sữa chủ tọa mà do các cán bộ từ trên huyện Châu Thành về. Họ xuống ấp để giải thích cho đồng bào về nghĩa vụ phải bán lương thực cho nhà nước… Khắp cả ấp, đi đâu người ta cũng bàn bạc về cái chuyện phải bán lương thực cho nhà nước....
*
Truyện rất gay cấn và điển hình. Đây là một truyện có giá trị phổ quát để nhìn lại lịch sử một thời ở VN.
Nhà văn Nguyễn Đức Lập được hấp thụ ngôn ngữ miền Nam từ bà Ngoại nên trong các tác phẩm của anh thuần túy với cách xử dụng văn phong Nam Bộ. Trong tác phẩm nầy, tác giả lại chuyển trong các mẫu đối thoại theo giọng miền Trung.
“Người Sau Cùng đã thất lạc một trang cuối” và cũng hình dung được hình ảnh Định là người sau cùng rút lui khi “một cánh quân không chịu nằm yên, bị phác giác!”.
Gửi ý kiến của bạn