Hôm nay,  

Hoa Kỳ: Nghề Nail và Luật Thuế Vụ Liên Bang

27/02/201712:31:00(Xem: 16326)

Hoa Kỳ:

 

Nghề Nail và Luật Thuế Vụ Liên Bang

* Tom Huỳnh, J.D.

[email protected]

 

Tại Hoa Kỳ, luật thuế vụ liên bang được thi hành bởi cơ quan thuế vụ liên bang IRS (Internal Revenue Service), áp dụng cho người làm việc tại khắp 50 tiểu bang. Ngoài luật thế vụ liên bang, mỗi tiểu bang còn có luật thuế vụ riêng, được thi hành bởi cơ quan thuế vụ của tiểu bang.

 

Trong nghề Nail, luật thuế vụ có những quy định khác biệt tùy vào mối quan hệ kinh doanh giữa chủ tiệm Nail và thợ làm trong tiệm. Mấu chốt tạo ra nhiều khác biệt trong vấn đề thuế vụ cho người trong nghề Nail là việc xác định thợ Nail làm trong tiệm là “employee” (nhân viên của chủ tiệm), hay là “self employed/independent contractor” (người làm việc độc lập/tự doanh).

 

Khác biệt trong vấn đề thuế vụ giữa “employee” và “self-employed/independent contractor” trong nghề Nail

 

* “Employee” 

 

Nếu chủ tiệm xác định thợ Nail là “employee,” luật thuế vụ bắt buộc chủ tiệm phải tạm thu một phần tiền lương của người thợ vào mỗi kỳ lương để nộp trước cho cơ quan thuế vụ các khoản thuế lợi tức liên bang (và thuế lợi tức theo luật tiểu bang, nếu có), thuế An Sinh Xã Hội và Medicare theo luật liên bang “Federal Insurance Contributions Act” (FICA), là các khoản thuế căn bản mà người “employee” phải chịu. Mức tạm thu các khoản thuế theo luật FICA sẽ dựa vào thông tin từ mẩu W-4 mà người “employee” nộp cho chủ tiệm khi được thâu nhận. Về phía chủ tiệm cũng phải đóng góp phần thuế An Sinh Xã Hội, Medicare, và bảo hiểm trợ cấp thất nghiệp cho “employee” theo quy định của đạo luật liên bang “Federal Unemployment Tax Act” (FUTA).

 

Hàng năm, chủ tiệm sẽ cấp mẫu W-2 cho thợ Nail khai thuế lợi tức. Mẫu W-2 sẽ liệt kê tổng số thù lao (gồm cả tiền típ) mà thợ đã nhận, cùng với tiền thuế mà thợ đã đóng bằng phần tiền chủ đã tạm thu trong mỗi kỳ lương. Nói chung, người thợ Nail là “employee” sẽ bị khấu trừ thuế ngay trên mỗi kỳ lương, và chủ tiệm cũng có trách nhiệm đóng thêm các khoản thuế liên quan đến việc thuê mướn “employee” theo quy định của luật thuế liên bang và của tiểu bang, nếu có.

 

Cũng nên biết rằng theo luật thuế vụ liên bang, tiền "típ" cũng được xem là lợi tức và phải đóng thuế. Luật thuế vụ đòi hỏi người thợ Nail là “employee” nếu có nhận “típ” trên $20 mỗi tháng, phải làm mẫu 4070 để báo cho chủ tiệm biết tổng số tiền “típ” nhận được hàng tháng để chủ tiệm tạm thâu thuế theo luật liên bang.  Tiền “típ” bao gồm cả tiền mặt và khi khách cho “típ” qua thẻ tín dụng. Về phần chủ tiệm, phải cộng tiền lương và tiền “típ” mà người thợ đã nhận để tính ra số thuế cần tạm thu và phần thuế mà chủ tiệm phải đóng góp khi trả lương cho người thợ.  Trên mẫu W-2 cấp cho người thợ Nail khai thuế hàng năm, tổng số tiền “típ” cũng phải được tính chung như là tiền lương mà người thợ này đã nhận lãnh.

 

 

“Self- employed/Independent contractor”

 

Trên nguyên tắc của luật thuế vụ liên bang, hầu hết những người đi làm tại Hoa Kỳ và được trả tiền công, dầu làm part-time hay full-time, thường được xem là “employee,” có nghĩa là nhân viên của chủ.  Tuy nhiên, không phải tất cả những người đi làm đều là “employee.”  Trong một số ngành nghề mà trong đó có nghề làm Nail, người thợ Nail vừa có thể là “employee,” nhưng cũng có thể là “self-employed/independent contractor” làm việc độc lập, không dưới sự điều khiển và kiểm soát của chủ. Theo luật thuế vụ liên bang, nếu người thợ Nail là “self/employed/independent contractor,” chủ tiệm sẽ không cần tạm thu hay đóng góp bất cứ loại thuế nào cho người thợ đó.

 

Tuy nhiên, nhằm ngăn chận tình trạng chủ tiệm Nail phân loại thợ Nail là “self employed/independent contractor” không đúng luật để tránh thi hành các quy định về thuế vụ áp dụng đối với “employee,” cơ quan IRS khi kiểm toán một tiệm Nail thường đòi hỏi chủ tiệm nếu không cấp mẫu W-2 cho thợ, thì phải có đủ dữ kiện để chứng minh người thợ Nail đó là “self employed/independent contractor” dựa trên những trắc nghiệm của IRS. Nếu cơ quan IRS xác định người thợ là “employee,” chủ tiệm có thể bị phạt rất nặng vì đã phạm luật thuế vụ.

 

Thông thường, người thợ Nail làm việc dưới dạng “self employed/independent contractor” là người thuê chỗ làm việc độc lập trong tiệm Nail. Người “self employed/independent contractor” sẽ nhận 100% số tiền của khách hàng trả cho, rồi thanh toán tiền thuê chỗ làm cho chủ tiệm theo sự thỏa thuận giữa đôi bên. Căn cứ trên một vài án lệ của tòa án thuế vụ liên bang (U.S. Tax Court), người thợ Nail là “self employed/independent contractor” có thể trả tiền thuê chỗ làm việc theo phần trăm của tổng số lợi tức hàng tuần mà người thợ làm được, nhưng phải có một giá thuê tối thiểu. Và người “self employed/independent contractor” có bổn phận phải đóng thuế tự doanh trên lợi tức của mình theo quy định của luật liên bang Self-Employment Contributions Act (SECA). Theo luật của một số tiểu bang, người thợ Nail làm việc độc lập còn được gọi là “chair/booth/space renter,” và được kể như là người đi thuê chỗ để làm việc trong tiệm của chủ.

 

* Thế nào là “Self Employed/Independent Contractor” theo luật thuế vụ liên bang?

 

Để có thể tận thu các khoản thuế do liên bang quy định, cơ quan IRS rất quan tâm đến vấn đề người lao động là “employee” hay “independent contractor.” Cần lưu ý rằng theo luật thuế vụ liên bang, người thợ Nail là “employee” hay “independent contractor” không phải đơn giản là tùy vào ý muốn của chủ tiệm hay của người thợ Nail, mà phải hội đủ một số điều kiện dựa trên những yếu tố trắc nghiệm do cơ quan thuế vụ IRS đề ra.

 

Theo cơ quan IRS, người lao động được xem là “employee” nếu người đó phải làm việc theo các nguyên tắc của chủ; được sự huấn luyện hoặc chỉ dẫn của chủ; làm một công việc đồng nhất với việc kinh doanh của chủ; phải tự mình làm việc chứ không được cho người khác thầu lại; làm việc thường xuyên và dài hạn với một chủ; phải làm theo ngày giờ ấn định; phải làm việc tại cơ sở của chủ; phải thường xuyên báo cáo công việc với chủ; được trả lương theo định kỳ; được bồi hoàn các phí tổn liên hệ đến việc làm; dùng dụng cụ và vật liệu của chủ; không có vấn đề lời hay bị lỗ lã trong công việc; chỉ làm việc cho một người chủ chứ không quảng cáo việc làm của mình cho công chúng; có thể bị sa thải hay tự động nghỉ việc bất kỳ lúc nào mà không bị trách nhiệm.

 

Cũng theo cơ quan IRS, người nào đi làm mà không ở vào các trường hợp vừa kể trên đây thì sẽ có thể được xem là “self employed/independent contractor” trong vấn đề thuế vụ của liên bang. 

 

* Trắc nghiệm của cơ quan thuế vụ IRS trong vấn đề phân loại người lao động 

 

Cơ quan IRS sử dụng phương thức trắc nghiệm theo luật phổ thông (Common law test) để xác định người lao động trong trường hợp nào có thể được xem là “self employed/independent contractor” theo luật thuế vụ liên bang. Trước đây, phương thức này gồm 20 yếu tố trắc nghiệm. Nhưng dưới áp lực của Quốc hội và các tổ chức lao động, cơ quan IRS vào năm 2006 đã tái duyệt 20 yếu tố trắc nghiệm “Common law test” và cô đọng lại còn 11 yếu tố chính. Các yếu tố này được đăng tải trong ấn bản “Publication 15-A” do cơ quan IRS ấn hành, và được chia thành ba hạng mục:

 

- Sự kiểm soát hành vi.

- Sự kiểm soát về tài chánh.

- Sự huấn luyện mà chủ cung cấp cho người lao động.

 

Dưới đây là tóm lược 11 yếu tố trắc nghiệm mà cơ quan thuế vụ IRS đề ra để xác định “self employed/independent contractor.” Hiện nay, cơ quan lao động tại một số tiểu bang cũng dựa vào 11 yếu tố trắc nghiệm này để phân định sự khác biệt giữa “employee” và “independent contractor” cho việc áp dụng các luật lệ lao động. Các yếu tố này chủ yếu nhằm trắc nghiệm mức độ kiểm soát của chủ và tính độc lập của người lao động. Yếu tố căn bản quan trọng là phải xem người chủ thật sự có quyền điều khiểngiám sát, hoặc theo dõi cách thức và ý định làm việc của người lao động hay không?  Chỉ cần người chủ có quyền như vừa nói trên  - bất kể là có sử dụng quyền đó hay không -  thì quan hệ “chủ và thợ” (employer- employee) sẽ được thành lập, và người lao động sẽ là “employee.” Ví dụ nếu người chủ có quyền tùy ý sa thải người lao động không cần có lý do, là một bằng chứng rõ ràng của quyền điều khiểngiám sát.

 

- Sự kiểm soát hành vi

 

Những chi tiết cho thấy có phải người chủ kiểm soát hoặc chỉ đạo việc làm của người lao động làm và cách người đó làm việc:

 

1. Sự hướng dẫn và chỉ đạo của chủ đối với người lao động.  Một “employee” thường lệ thuộc vào hướng dẫn và chỉ đạo của chủ về thời gian, địa điểm và cách làm việc.

 

2.  Sự huấn luyện mà người chủ cung cấp cho người lao động.  Một “employee” có  thể  được chủ huấn luyện cách thức để làm việc. Người “self employed/independent contractor” thường làm việc theo cách thức riêng.   

 

- Sự kiểm soát về tài chánh

 

Những chi tiết cho thấy có phải người chủ có quyền kiểm soát việc kinh doanh của người lao động:

 

3. Mức độ về chi phí liên hệ trong công việc làm người lao động không được chủ bồi hoàn. Người “self employed/independent contractor” có nhiều khả năng không được bồi hoàn chi phí hơn là “employee.” Những chi phí cố định mà người lao động phải chịu bất kể có hay không có việc làm, được kể là đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, “employee” cũng có thể không được bồi hoàn chi phí trong nhiều công việc mà họ thực hiện cho người chủ.

 

4.  Mức độ về sự đầu tư của người lao động. Một “employee” thường không có sự đầu tư nào khác vào việc làm ngoài vấn đề tốn kém thời gian làm việc. “Independent contractor” thường phải đầu tư đáng kể vào các phương tiện mà người đó dùng để cung cấp dịch vụ cho người khác.

 

5. Mức độ quảng bá dịch vụ của người lao động trên thị trường liên hệ. Người “self employed/ independent contractor” được quyền tự do tìm cơ hội kinh doanh, thường quảng cáo về dịch vụ của mình và sẵn sàng để làm việc.

 

6. Cách thức mà người chủ trả tiền cho người lao động.  Một “employee” thường được hưởng lương cố định theo mỗi giờ, mỗi tuần hay trong một chu kỳ thời gian nào đó.  Chi tiết này là dấu chỉ cho thấy người lao động là “employee,” kể cả trường hợp lương bổng được kèm theo tiền huê hồng.  Một “independent contractor” thường được trả công cho từng việc làm.

 

7.  Mức độ lời lỗ của người lao động.  Người chủ thường cung cấp cho “employee” nơi làm việc, dụng cụ, thiết bị và nguyên liệu cần thiết trong việc làm, và thường trả mọi phí tổn để kinh doanh, người  “employee” vì vậy không có sự lời lỗ trong việc làm.  Người “self employed/independent contractor” có thể lời, hoặc có thể bị lỗ trong kinh doanh.

 

 

- Hình thức của mối quan hệ

 

Những dấu chỉ cho thấy hình thức quan hệ đôi bên:

 

8.  Hợp đồng trên văn bản mô tả quan hệ mà đôi bên có ý thành lập.  Đây là yếu tố ít quan trọng, vì vấn đề chủ yếu là mối quan hệ thật sự trong lúc làm việc, chứ không phải những gì đôi bên lựa chọn để gọi. Nhưng trong những trường hợp mà các yếu tố phân định quá suýt soát, bản hợp đồng có thể làm nên sự khác biệt.

 

9. Người chủ có cung cấp cho công nhân những phúc lợi dành cho “employee” hay không?  Ví dụ như bảo hiểm sức khỏe, chương trình hưu bổng, được hưởng lương các ngày nghỉ phép hay đau ốm, bồi hoàn phí tổn liên quan đến việc làm, v.v… Quyền cung cấp hay thâu hồi các phúc lợi thường do người chủ áp dụng đối với “employee.” Người “independent contractor” thực sự sẽ phải tự chi trả các khoản phúc lợi bằng lợi nhuận từ việc kinh doanh.

 

10.  Sự liên tục của mối quan hệ.  Nếu người chủ dùng người lao động với ý định kéo dài mối quan hệ trong thời gian vô hạn định, thay vì trong một dự án hoặc một khoảng thời gian cố định, điều này thường được xem như bằng chứng tạo nên mối quan hệ “chủ - employee.”

 

11. Mức độ cho thấy công việc của người lao động là phần chính yếu trong việc kinh doanh thường xuyên của người chủ.  Nếu dịch vụ do người lao động cung cấp là phần chính yếu trong việc kinh doanh thường xuyên của người chủ, thì thông thường người chủ sẽ có quyền chỉ đạo và kiểm soát việc làm của người lao động.

 

Mặc dầu đã đưa ra những yếu tố trắc nghiệm như đã tóm lược bên trên, cơ quan IRS cho biết sẽ không có những yếu tố riêng biệt nào để xác định người lao động là “employee” hay “self employed/independent contractor,” và không một yếu tố nào khi đứng riêng một mình mà xác định được điều đó.  Một vài yếu tố khi dùng để trắc nghiệm có thể sẽ cho thấy người lao động là “employee,” trong khi các yếu tố khác lại cho thấy đó là “self employed/independent contractor.” Ngoài ra, có những yếu tố liên quan trong trường hợp này, nhưng lại có thể không liên quan trong hoàn cảnh khác. Chủ yếu là phải xem kỹ toàn bộ mối quan hệ giữa chủ và người lao động, mức độ hoặc giới hạn về quyền chỉ đạo và kiểm soát trực tiếp của chủ, và cuối cùng là phải ghi nhận mọi yếu tố trước khi xác định người lao động là “employee” hay “self employed/independent contractor.”

 

Ngoài luật thuế vụ liên bang, mỗi tiểu bang cũng có luật thuế vụ riêng, được thi hành bởi cơ quan thuế vụ của tiểu bang. Tuy nhiên, luật thuế vụ tại các tiểu bang cũng thường dùng trắc nghiệm của IRS để phân loại người lao động là “employee” hay “self employed/independent contractor”.

 

Để có thể áp dụng luật thuế vụ một cách đúng đắn và tránh phải trả các khoản tiền phạt vạ khi bị kiểm toán trong vấn đề thuế vụ, chủ tiệm Nail cần phải xác định những thợ Nail làm trong tiệm của mình là “employee” hay “self-employed/independent contractor” theo đúng quy định của IRS và cơ quan thuế vụ của tiểu bang đang hành nghề.

 

Cần thêm thông tin, có thể liên lạc trực tiếp với Tiến Sĩ Luật Khoa Tom Huỳnh, điện thoại (949) 943-4396.
 

-------------------

SÁCH MỚI PHÁT HÀNH !!!
 

  “LUẬT PHÁP VÀ NGHỀ NAIL TẠI HOA KỲ 2017

  

Đầy đủ thông tin chính xác mới nhất năm 2017 về mọi thứ luật lệ và quy định của liên bang và của từng tiểu bang Hoa Kỳ liên quan đến nghề Nail.

  Giá $16.95 + $6.65 cước phí trong Hoa Kỳ.

 Muốn đặt mua sách, gửi tên & địa chỉ người nhận và chi phiếu $23.60 về:

  

Tom Huynh, J.D.

221 Main Street, #1011

Seal Beach, CA 90740

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.