Hôm nay,  

Chiến Dịch Di Tản Trẻ Em Mồ Côi Việt Nam 1975: Operation Babylift 1975

5/30/201700:00:00(View: 9609)

Tôi và anh Lê Quang Phát biệt phái làm việc cho Phòng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ (U.S Defense Attaché Office DAO) của tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Hai chúng tôi có nhiệm vụ thường xuyên liên lạc với phòng An Ninh Không Quân Tân Sơn Nhứt của Trung Tá Trần Văn Ngưu để cung cấp thẻ an ninh cho tất cả quân nhân và dân sự Hoa Kỳ và toàn thể nhân viện Việt Nam làm việc cho cơ quan này. Với thẻ an ninh này họ mới được phép ra vào phi trường Tân Sơn Nhứt và các cơ sở của Hoa Kỳ tại Saigon, Gia Định và Biên Hòa.

Trong khoảng thời gian vài tháng trước ngày Sài Gòn rơi vào tay Cộng Sản Việt Nam, các hội từ thiện tại Hoa Kỳ muốn giải cứu các em bé mồ côi ra khỏi vùng chiến tranh. và một số hội Cha Mẹ Nuôi đang hoạt động ở Việt Nam yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ giúp di tản trẻ mồ côi từ những trại mồ côi ở Việt Nam. Họ làm áp lực bên Hoa Kỳ và bên Việt Nam. Họ yêu cầu Tổng Thống Gerald Ford nên tìm cách di tản các em mồ côi ra khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt. Đầu tháng Tư 1975 Tổng Thống Ford tuyên bố chính phủ Hoa Kỳ sẽ di tản trẻ mồ côi từ niềm Nam Việt Nam. Chiến dịch này sẽ đưa trẽ em mồ côi Việt Nam qua Hoa Kỳ và những nước khác như Úc, Pháp và Gia Nã Đại,

Ông John Gillen, trưởng phòng An Ninh của DAO bảo hai chúng tôi thông báo cho Trung Tá Trần Văn Ngưu rằng chiến dịch Operation Babylift sẽ được thực hiện bất cứ lúc nào. Chiến dịch này được gọi là Chiến Dịch Di Tản Trẻ Em Mồ Côi Việt Nam hay dịch ra tiếng Anh là Operation Babylift.

Cũng nên nhấn mạnh rằng vào lúc ấy những người thực hiện chiến dịch này không biết chắc chắn có bao nhiêu trẻ mồ côi sẽ được di tản. Dự đoán là khoảng từ vài trăm em hay cả ngàn, rồi mấy ngàn em. Con số này tiếp tục tăng cao theo tin đồn có những em nhỏ ở tận Quãng Tri Thừa Thiên cũng được người ta đem vào, nhưng không ai có thể chứng minh đúng số là bao nhiêu em.

Về mặt pháp lý thì vấn đề xin con mồ côi, các em mồ côi cha me hội đủ điều kiện được các gia đình người Mỹ nhận làm con nuôi. Giấy phép xin con nuôi bên Hoa Kỳ đã chuyển đến Bộ Ngoại Giao Việt Nam. Theo lời ông Đệ Nhứt Bí Thư Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ thì chánh phủ Việt Nam quá lộn xộn nhưng còn chuyện giấy phép là phải có Bộ Tư Pháp Việt Nam chấp thuận. Ông không thể chờ đợi và giận dữ. Ông Gillen nói chuyện này phải tiến hành mau lẹ. Khi nhận được giấy phép, máy bay của Không Lực Hoa Kỳ (US Military Airlift Command (MAC) đến đưa các em đi ngay.

Chiến dịch Operation Babylift được chuẩn bị trong một thời gian rất ngắn. Tất cả các em được các hội cha me nuôi Mỹ Việt tại Saigon và bên Tòa Đại Sứ Mỹ chuẩn bị rất chu đáo. Tất cả nhân viên gồm Bác Sĩ và Y Tá thuộc bệnh viện Hoa Kỳ ở Saigon cộng với một số lớn nhân viên Mỹ của DAO, xe cứu thương và xe buýt với tư thế chờ đợi và sẳn sàng.

Đầu tháng Tư chiến dịch Operation Babylift bắt đầu. Hôm đó tôi bị bịnh vì mới mổ ruột dư nên không đến sở. Anh Phát phải làm việc ngày đó. Anh và ông Gillen phối hợp với Trung Tá Ngưu chỉ huy cho xe chở các em vào phi trường.

Ngồi nhà buồn chán, tôi mở truyền hình lên xem thì thấy hình ảnh của chiếc máy bay A C-5 Galaxy chở mấy trăm em nhỏ và người lớn rớt ở một địa điểm hiểm trở cách Saigon không xa. Hôm sau, tôi vào sở, nghe anh Phát kể lại các hoạt động hôm đó mà rùng mình. Chiến dịch này kéo dài mấy ngày liền. Về chuyến bay bị rớt, tôi hỏi ông Gillen có bao nhiêu người chết, ông ta lắc đầu lia lịa, rồi ông quát lớn, “Nobody know” Không ai biết hết! Các anh đừng phao tin này ra ngoài. Nó rất nguy hiểm."

Một tuần lể sau tại nạn đó, Ông Gillen nói với tôi một cách buồn bả, "Anh đi qua cư xá, đến phòng của Jennifer kiểm kê hết đồ đạc trong phòng, lập một cái list, kêu người đóng thùng gởi về cho cha mẹ cô ấy".

Jennifer là thư ký xinh đẹp của Đại Tá Trưởng Khối Không Quân của DAO. Người da trắng mắt xanh gốc Ái Nhĩ Lan, cô còn độc thân và rất trẽ. Người nhỏ gọn cao 5 feet, sắc đẹp nghiên trời. Chúng tôi gọi cô ta là Miss DAO (Hoa khôi của DAO). Sau khi tốt nghiệp Đại Học. không muốn lập gia đình, cô nhận việc làm ở Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ rồi xin qua Việt Nam làm việc hai năm với hy vọng có dịp thay đổi cuộc đời. Vì sức khỏa của trẻ em mồ côi chương trình Operation Babylift buộc phải có bác sĩ, y tá và nhiều người lớn đi theo chăm sóc. Mỗi người lớn đi theo được chỉ định hai em nhỏ khi lên máy bay. Jennifer tình nguyện đi theo và gặp nạn. Một số người sống sót, một số bị thương và mấy người chết trong đó có Jennifer. Số các em sống sót và bị thương được lập tức đưa đi qua Mỹ ngay.

Tôi và anh tài xế ghi chép, đánh số mọi thứ trong phòng xong, tôi bước vào phòng ngủ, một gian phòng đơn sơ nhưng rất ấm cúng. Ngọn đèn ngủ chưa tắt, cây quạt máy vẫn còn đứng quây nhè nhẹ cho tôi cái cảm nhận cô vội vàng đi cho kịp chuyến bay hôm đó nên quên tắt cây quạt. Nhìn tấm hình nhỏ miệng tươi cười trong khuôn hình dựng trên bàn bên giường ngủ tôi thật sự trào ra nước mắt.

Tôi mang tấm hình trở về văn phòng báo cáo cho ông Gillen, đồng thời tôi đặt tấn hình của Jennifer lên bàn viết của ông. Ông nhìn tấm hình một lúc đôi mắt của ông rưng rưng. Ông cầm ống điếu bập bập, một làn khói trắng bay lên rồi ông nhè nhẹ kêu tên tôi. "Bình! anh đem nó trở lại bỏ chung đồ đạt của cô ta ngay bây giờ". Tội nghiệp cho Jennifer, người có một tâm hồn cao quý đã ra đi vì các em mồ côi Việt Nam. Tất cả chúng tôi không ai biết các em bé nuôi này đươc đưa về đâu. Ai nhận nuôi dưởng các em bé mồ côi cha mẹ này.

Một năm sau ngày tôi định cư yên ổn, tôi gặp một em Babylift tại Mỹ.

Câu chuyện xẩy ra rất bất ngờ. Sau khi định cư ở Mỷ tôi làm việc cho chương trình tị nạn Đông Dương tôi thường đi thăm các lớp học ESL và gặp người tị nạn trong toàn tiểu bang Washington để lượng giá sự tiến bộ và có trở ngại gì mới của từng địa phương. Một hôm tôi đi đến trường Grays Harbor Community College, tôi gặp anh Gary H., người phụ trách chương trình ESL. Sau khi thảo luận về chương trình dạy xong, Gary H. nói anh ta có nuôi một đứa trẽ mồ côi Việt Nam. Thật là bất ngờ cho tôi. Anh quảnh mặt lên hảnh diện nói, "Nó là một trong các em đi trong chiến dịch Babylift đó. Một số trẽ em trong chiến dịch Operation Babylift được máy bay đem về McChord Fort Lewis Tacoma” nằm sát bên căn cứ quân sự Camp Murray nơi tôi hướng dẩn đoàn người tị nạn Việt Nam đầu tiên đến Camp Murray tạm trú năm 1975. Anh còn cho tôi biết có một đứa nhỏ khác cũng trong chiến dịch này đã được một cặp vợ chồng trẻ nhận nuôi và đang ở Raymond. Gary cho tôi địa chỉ và số điện thoại của cặp vợ chồng trẻ này.

Tôi đến thăm em bé này tại nhà người cha mẹ nuôi, tôi không còn nhớ tên, thân hình bé bổng, em nhìn tôi nhưng không cười, không tránh né như những đứa trẻ khác. Bé rất dể thương. Người cha nuôi nói với tôi anh muốn nó gặp người Việt Nam, muốn nó ăn thức ăn Việt Nam để nó biết nguồn gốc của nó.

Thị trấn Raymond thuộc quận Grays Harbor, quanh năm sương mù, nhiều ngày ảm đạm vào mùa Đông. Cả thị trấn chỉ có mấy con đường tráng nhựa, ít người và hoang vu, không có một gia đình người Á Châu nào ở trong hay chung quanh thị trấn này. Người ở đây muốn ăn một bửa cơm Á Châu phải đi khoảng 150 cây số mới tìm được một nhà hàng Tàu và nơi này tuyệt đối không có một nhà hàng Việt. Tôi tự hỏi vì sao đứa bé ở cái tuổi còn quá nhỏ mà phải đi xa tít chân trời để rồi không còn nghe tiếng mẹ Việt Nam ru con ngủ.

Nhận thấy hoàng cảnh quá khó khăn. Tôi đưa anh một số điện thoại của người Việt cư ngụ tại thị trấn Aberdeen cách nhà anh khoảng 20 dặm để anh đem đứa con nuôi đi gặp các em nhỏ người Việt Nam khác cho nó vui. Chiều buông xuống, tôi cáo lui, từ giã thị trấn Raymond, bỏ lại sau lưng đứa bé và cặp vợ chồng trẻ. Tôi vô tình mang theo khuôn mặt buồn hiu của nó trong tâm trí của tôì cho đến ngày này.

Đường Bình

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.