Hôm nay,  

Chiến Dịch Di Tản Trẻ Em Mồ Côi Việt Nam 1975: Operation Babylift 1975

30/05/201700:00:00(Xem: 9387)

Tôi và anh Lê Quang Phát biệt phái làm việc cho Phòng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ (U.S Defense Attaché Office DAO) của tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Hai chúng tôi có nhiệm vụ thường xuyên liên lạc với phòng An Ninh Không Quân Tân Sơn Nhứt của Trung Tá Trần Văn Ngưu để cung cấp thẻ an ninh cho tất cả quân nhân và dân sự Hoa Kỳ và toàn thể nhân viện Việt Nam làm việc cho cơ quan này. Với thẻ an ninh này họ mới được phép ra vào phi trường Tân Sơn Nhứt và các cơ sở của Hoa Kỳ tại Saigon, Gia Định và Biên Hòa.

Trong khoảng thời gian vài tháng trước ngày Sài Gòn rơi vào tay Cộng Sản Việt Nam, các hội từ thiện tại Hoa Kỳ muốn giải cứu các em bé mồ côi ra khỏi vùng chiến tranh. và một số hội Cha Mẹ Nuôi đang hoạt động ở Việt Nam yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ giúp di tản trẻ mồ côi từ những trại mồ côi ở Việt Nam. Họ làm áp lực bên Hoa Kỳ và bên Việt Nam. Họ yêu cầu Tổng Thống Gerald Ford nên tìm cách di tản các em mồ côi ra khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt. Đầu tháng Tư 1975 Tổng Thống Ford tuyên bố chính phủ Hoa Kỳ sẽ di tản trẻ mồ côi từ niềm Nam Việt Nam. Chiến dịch này sẽ đưa trẽ em mồ côi Việt Nam qua Hoa Kỳ và những nước khác như Úc, Pháp và Gia Nã Đại,

Ông John Gillen, trưởng phòng An Ninh của DAO bảo hai chúng tôi thông báo cho Trung Tá Trần Văn Ngưu rằng chiến dịch Operation Babylift sẽ được thực hiện bất cứ lúc nào. Chiến dịch này được gọi là Chiến Dịch Di Tản Trẻ Em Mồ Côi Việt Nam hay dịch ra tiếng Anh là Operation Babylift.

Cũng nên nhấn mạnh rằng vào lúc ấy những người thực hiện chiến dịch này không biết chắc chắn có bao nhiêu trẻ mồ côi sẽ được di tản. Dự đoán là khoảng từ vài trăm em hay cả ngàn, rồi mấy ngàn em. Con số này tiếp tục tăng cao theo tin đồn có những em nhỏ ở tận Quãng Tri Thừa Thiên cũng được người ta đem vào, nhưng không ai có thể chứng minh đúng số là bao nhiêu em.

Về mặt pháp lý thì vấn đề xin con mồ côi, các em mồ côi cha me hội đủ điều kiện được các gia đình người Mỹ nhận làm con nuôi. Giấy phép xin con nuôi bên Hoa Kỳ đã chuyển đến Bộ Ngoại Giao Việt Nam. Theo lời ông Đệ Nhứt Bí Thư Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ thì chánh phủ Việt Nam quá lộn xộn nhưng còn chuyện giấy phép là phải có Bộ Tư Pháp Việt Nam chấp thuận. Ông không thể chờ đợi và giận dữ. Ông Gillen nói chuyện này phải tiến hành mau lẹ. Khi nhận được giấy phép, máy bay của Không Lực Hoa Kỳ (US Military Airlift Command (MAC) đến đưa các em đi ngay.

Chiến dịch Operation Babylift được chuẩn bị trong một thời gian rất ngắn. Tất cả các em được các hội cha me nuôi Mỹ Việt tại Saigon và bên Tòa Đại Sứ Mỹ chuẩn bị rất chu đáo. Tất cả nhân viên gồm Bác Sĩ và Y Tá thuộc bệnh viện Hoa Kỳ ở Saigon cộng với một số lớn nhân viên Mỹ của DAO, xe cứu thương và xe buýt với tư thế chờ đợi và sẳn sàng.

Đầu tháng Tư chiến dịch Operation Babylift bắt đầu. Hôm đó tôi bị bịnh vì mới mổ ruột dư nên không đến sở. Anh Phát phải làm việc ngày đó. Anh và ông Gillen phối hợp với Trung Tá Ngưu chỉ huy cho xe chở các em vào phi trường.

Ngồi nhà buồn chán, tôi mở truyền hình lên xem thì thấy hình ảnh của chiếc máy bay A C-5 Galaxy chở mấy trăm em nhỏ và người lớn rớt ở một địa điểm hiểm trở cách Saigon không xa. Hôm sau, tôi vào sở, nghe anh Phát kể lại các hoạt động hôm đó mà rùng mình. Chiến dịch này kéo dài mấy ngày liền. Về chuyến bay bị rớt, tôi hỏi ông Gillen có bao nhiêu người chết, ông ta lắc đầu lia lịa, rồi ông quát lớn, “Nobody know” Không ai biết hết! Các anh đừng phao tin này ra ngoài. Nó rất nguy hiểm."

Một tuần lể sau tại nạn đó, Ông Gillen nói với tôi một cách buồn bả, "Anh đi qua cư xá, đến phòng của Jennifer kiểm kê hết đồ đạc trong phòng, lập một cái list, kêu người đóng thùng gởi về cho cha mẹ cô ấy".

Jennifer là thư ký xinh đẹp của Đại Tá Trưởng Khối Không Quân của DAO. Người da trắng mắt xanh gốc Ái Nhĩ Lan, cô còn độc thân và rất trẽ. Người nhỏ gọn cao 5 feet, sắc đẹp nghiên trời. Chúng tôi gọi cô ta là Miss DAO (Hoa khôi của DAO). Sau khi tốt nghiệp Đại Học. không muốn lập gia đình, cô nhận việc làm ở Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ rồi xin qua Việt Nam làm việc hai năm với hy vọng có dịp thay đổi cuộc đời. Vì sức khỏa của trẻ em mồ côi chương trình Operation Babylift buộc phải có bác sĩ, y tá và nhiều người lớn đi theo chăm sóc. Mỗi người lớn đi theo được chỉ định hai em nhỏ khi lên máy bay. Jennifer tình nguyện đi theo và gặp nạn. Một số người sống sót, một số bị thương và mấy người chết trong đó có Jennifer. Số các em sống sót và bị thương được lập tức đưa đi qua Mỹ ngay.

Tôi và anh tài xế ghi chép, đánh số mọi thứ trong phòng xong, tôi bước vào phòng ngủ, một gian phòng đơn sơ nhưng rất ấm cúng. Ngọn đèn ngủ chưa tắt, cây quạt máy vẫn còn đứng quây nhè nhẹ cho tôi cái cảm nhận cô vội vàng đi cho kịp chuyến bay hôm đó nên quên tắt cây quạt. Nhìn tấm hình nhỏ miệng tươi cười trong khuôn hình dựng trên bàn bên giường ngủ tôi thật sự trào ra nước mắt.

Tôi mang tấm hình trở về văn phòng báo cáo cho ông Gillen, đồng thời tôi đặt tấn hình của Jennifer lên bàn viết của ông. Ông nhìn tấm hình một lúc đôi mắt của ông rưng rưng. Ông cầm ống điếu bập bập, một làn khói trắng bay lên rồi ông nhè nhẹ kêu tên tôi. "Bình! anh đem nó trở lại bỏ chung đồ đạt của cô ta ngay bây giờ". Tội nghiệp cho Jennifer, người có một tâm hồn cao quý đã ra đi vì các em mồ côi Việt Nam. Tất cả chúng tôi không ai biết các em bé nuôi này đươc đưa về đâu. Ai nhận nuôi dưởng các em bé mồ côi cha mẹ này.

Một năm sau ngày tôi định cư yên ổn, tôi gặp một em Babylift tại Mỹ.

Câu chuyện xẩy ra rất bất ngờ. Sau khi định cư ở Mỷ tôi làm việc cho chương trình tị nạn Đông Dương tôi thường đi thăm các lớp học ESL và gặp người tị nạn trong toàn tiểu bang Washington để lượng giá sự tiến bộ và có trở ngại gì mới của từng địa phương. Một hôm tôi đi đến trường Grays Harbor Community College, tôi gặp anh Gary H., người phụ trách chương trình ESL. Sau khi thảo luận về chương trình dạy xong, Gary H. nói anh ta có nuôi một đứa trẽ mồ côi Việt Nam. Thật là bất ngờ cho tôi. Anh quảnh mặt lên hảnh diện nói, "Nó là một trong các em đi trong chiến dịch Babylift đó. Một số trẽ em trong chiến dịch Operation Babylift được máy bay đem về McChord Fort Lewis Tacoma” nằm sát bên căn cứ quân sự Camp Murray nơi tôi hướng dẩn đoàn người tị nạn Việt Nam đầu tiên đến Camp Murray tạm trú năm 1975. Anh còn cho tôi biết có một đứa nhỏ khác cũng trong chiến dịch này đã được một cặp vợ chồng trẻ nhận nuôi và đang ở Raymond. Gary cho tôi địa chỉ và số điện thoại của cặp vợ chồng trẻ này.

Tôi đến thăm em bé này tại nhà người cha mẹ nuôi, tôi không còn nhớ tên, thân hình bé bổng, em nhìn tôi nhưng không cười, không tránh né như những đứa trẻ khác. Bé rất dể thương. Người cha nuôi nói với tôi anh muốn nó gặp người Việt Nam, muốn nó ăn thức ăn Việt Nam để nó biết nguồn gốc của nó.

Thị trấn Raymond thuộc quận Grays Harbor, quanh năm sương mù, nhiều ngày ảm đạm vào mùa Đông. Cả thị trấn chỉ có mấy con đường tráng nhựa, ít người và hoang vu, không có một gia đình người Á Châu nào ở trong hay chung quanh thị trấn này. Người ở đây muốn ăn một bửa cơm Á Châu phải đi khoảng 150 cây số mới tìm được một nhà hàng Tàu và nơi này tuyệt đối không có một nhà hàng Việt. Tôi tự hỏi vì sao đứa bé ở cái tuổi còn quá nhỏ mà phải đi xa tít chân trời để rồi không còn nghe tiếng mẹ Việt Nam ru con ngủ.

Nhận thấy hoàng cảnh quá khó khăn. Tôi đưa anh một số điện thoại của người Việt cư ngụ tại thị trấn Aberdeen cách nhà anh khoảng 20 dặm để anh đem đứa con nuôi đi gặp các em nhỏ người Việt Nam khác cho nó vui. Chiều buông xuống, tôi cáo lui, từ giã thị trấn Raymond, bỏ lại sau lưng đứa bé và cặp vợ chồng trẻ. Tôi vô tình mang theo khuôn mặt buồn hiu của nó trong tâm trí của tôì cho đến ngày này.

Đường Bình

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.