Hôm nay,  

Lên Non Xuống Núi Ung Dung – Ông Rùa Đá Ngộ

24/06/201714:36:07(Xem: 6611)
blank
Tác giả và nhà giáo dục NHLD.


LÊN NON XUỐNG NÚI UNG DUNG – ÔNG RÙA ĐÁ NGỘ

  

Sáng nay, trong không gian yên tĩnh, ngồi đọc thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du, người có tên thân thương khác mà chúng tôi thường gọi là Ông Rùa Đá, ôi sao nhẹ nhàng và diệu vợi như tiếng chuông ngân. Một sáng mai, trong lành như Buổi Sáng của NHLD,

Trên hồ xanh

Con cá quẫy

Bỗng động đậy

Mặt trời hồng.

Trong cái động đậy đó chúng tôi chợt nhớ đến Cội Nguồn của anh, cũng như của tất cả chúng ta.

Mai đây khi trở về nguồn

Suối trong róc rách nước ngon môi mềm

Giữa rừng cây quế đứng im

Ta say giấc giữa tiếng chim gọi đàn.

 À thì ra, anh cũng đã và đang gọi đàn, vậy mà bấy lâu nay chúng tôi cùng đồng hành với anh lúc nào không biết. Trong thơ anh, chúng tôi thấy những thao thức, khát khao, cay đắng, hy vọng, tin yêu và tình thương mà người luôn muốn được chia sẻ cùng nhau. Cũng như bao nhiêu người Việt ly hương, anh luôn nhớ về nguồn cội và tìm mọi cách để góp phần xây dựng quê hương, nhất là lãnh vực giáo dục và văn học nghệ thuật. Anh còn là một trong những người sáng lập trang nhà Làng Huệ.

 Tấm lòng cao thượng của anh là thế. Từ bi và trí tuệ song toàn; bút lực sung mãn. Anh vẫn âm thầm cống hiến cho cho văn thơ Việt Nam nói riêng và cho nền giáo dục Viện Nam nói chung. Âu đó cũng là những Phẩm Vật của Trần Gian mà anh hằng ấp ủ trong cuộc đời mong manh và ngắn ngủi này. Hãy nghe anh gởi gấm những thông điệp yêu thương, hoài niệm, trầm uất, khát khao, bi hùng, chí lý, dõng dạc, hiên ngang, đầy nghĩa tình, đầy khí phách, có khi buồn man mác nhưng lạc quan và nhân bản – Bài thơ Trên Giòng Sông Trắng là một trong nhiều bài thơ bất hủ của anh mà chúng tôi luôn đồng cảm.

 

Trên Giòng Sông Trắng  

                    

Đã có lần nơi đầu nguồn im vắng

Anh làm thơ trên lá thả theo giòng.

Em giặt lụa tay thơm bờ sông trắng,

Bóng xuân hồng cúi xuống vớt thơ trăng.

 

Ôi cái thuở lòng anh thơm gió núi

Và tình em hương lúa chín trên đồng.

Chim chóc hót những ngày như mở hội.

Thơ chúng mình tinh-khiết tựa sương trong…

 

Rồi quê-hương đêm ngút trời khói lửa.

Viên đạn đồng tàn-nhẫn đã bay qua.

Em nhắm mắt.. Đường mình chia hai ngả.

Anh lang thang, mưa gió mãi không nhà.

Sau cuộc chiến tìm về nguồn lạnh vắng.

Thơ không làm, lấy lá thả đời trôi.

Nơi cuối giòng vẫn nắng vàng, sông trắng.

Không còn người âu-yếm vớt hồn tôi.

 

 Anh là thế hệ đi trước, đã trải nghiệm biết bao nhiêu thăng trầm và gian truân trong cuộc đời; anh đã sống qua thời Cải cách ruộng đất đến Chiến tranh Việt Nam. Từ Việt Nam ra hải ngoại, anh đã dọc ngang ngang dọc mọi thời khắp trời Đông Tây, cũng để rồi “tìm về nguồn lạnh vắng” để rồi anh ôm ấp Tình yêu thương rộng lớn của cõi đời hầu “ta giữ đến mai sau”.

 Hay nói một cách khác, giữa sống và chết, giữa khỏe mạnh và ốm đau, giữa có và không, giữa còn và mất, anh vẫn giữ tấm tâm trong với thông điệp Yêu thương, Từ bi, Bác ái cho chính anh và cuộc đời. Âu đó cũng là chìa khóa cho một cuộc sống an bình và hạnh phúc cho mình, cho người và cho muôn loài. Hãy nghe nhà thơ tâm sự khi ngưỡng cửa thứ ba trong đời chào đón anh:

 

Giữa Cõi Đi Về

 

Trăng vẫn chiếu cuộc chơi từ cổ-độ,

Chợt vòng quay đảo lộn cả phương trời.

Nơi bãi vắng đóa hoa vừa nở rộ,

Thuyền ơi thuyền nước chẩy cứ trôi xuôi.

 

Cửa Trời Đất vô cùng đâu có hẹp.

Ta yêu nhau khi trăng thuộc về người.

Tới hay lui, lối đi nào cũng đẹp.

Ở hay về, đường vọng những lời chim.

 

Đây là chút yêu thương làm rượu ngọt,

Cho anh em chuếnh-choáng với mâm đời.

Rừng sương mộng, môi mềm ta cứ uống.

Giữa chợ chiều, tâm-thức nhớ an-vui.

 

Có tiếng hát mơ-hồ trên bến hẹn,

Tiễn chân nhau tới chốn ít ai tìm?

Cơn sóng lớn băng qua nguồn tắc-nghẽn.

Giòng máu nồng theo lối chẩy về tim.

 

Hỡi chăn gối đã đưa ta trở lại,

Tạ ơn nhiều êm-ái lúc thân đau.

Hỡi viên thuốc trên đầu môi tê-dại.

Dư-vị này ta giữ đến mai sau.

 Anh vẫn lạc quan, yêu đời và biết ơn với cuộc sống. Âm điệu, thi ảnh, mầu sắc, và tư tưởng đều có đầy đủ trong bất cứ một bài thơ hay nào, mà anh thì có quá nhiều bài thơ tương tự để liệt kê nơi đây. Mà thơ nói chung, theo luận điểm 29 trong Mỹ Học của Geghen mà Phan Ngọc dịch, là "Vì ngôn ngữ là thực tại trực tiếp của tinh thần, cho nên thơ bao quát được đối tượng, mọi đề tài, "mọi nội dung, mọi sự vật, mọi biến cố, hành động, lịch sử, trạng thái bên ngoài hay bên trong. Nó lại thể hiện đối tượng trong sự vận động (điều mà điêu khắc, kiến trúc, hội hoạ không thể làm được). Đồng thời, thơ lại có thể dịch ra một ngôn ngữ khác mà vẫn không bỏ mất giá trị khi đọc hay xem bản dịch. Mỗi nghệ thuật điều có cái thời cực thịnh của mình..."

 

 Những trang thơ của Nguyễn Hoàng Lãng Du đăng trên Làng Huệ là ‘thời cực thịnh’ của anh. Tư tưởng Mang Tình Yêu Thương Lớn (Bác Ái) của Thiên Chúa giáo hay Tứ Vô Lượng Tâm của Phật giáo đem vào cuộc đời để thắp sáng ngọn lửa tin yêu, hy vọng, an bình và giải thoát. Nhà thơ đi và về giữa cuộc đời với bao phong trần, khổ lụy mà không hề bám víu, hối tiếc hay khóc thương, xem lợi danh như bọt biển mây chiều.

 

Đây chén đắng, môi sầu ta mãi nếm.

Em xót-xa nên nước mắt lưng tròng.

Canh bạc đời một lần thôi đã kém.

Mỉm miệng cười, đứng dậy thấy tay không (Bến Nhớ).

 

Để rồi nhà thơ thong dong phủi tay lên núi Tiên tu đạo làm người.

 

Trên Núi Cao

1

Trên núi cao bỗng có cơn gió lớn

Cuốn hồn ta thành một kẻ trọc đầu.

Gã lang-thang nơi cuối trời mây trắng,

Chốn quê nghèo thoang-thoảng chút hương cau.

2

Ở nơi đó có mùa  trăng cổ-tích,

Mẹ hàng ngày quang gánh nặng yêu thương.

Cha ngạo-nghễ nên vui đời áo rách,

Thua-thiệt gì vẫn giữ cái tâm trong

3

Ở nơi đó có người em bé nhỏ,

Trái cam vàng em nhịn đợi chờ anh.

Chiều ly-biệt chao ơi tha-thiết quá!

Em ôm anh khóc ngất lúc xuân tàn.

4

Ở nơi đó có người tình thuở cũ,

Vỡ lòng yêu khi đi học chung trường.

Có ngờ đâu giòng đời như thác lũ,

Ngọn tre già nặng chĩu những tang-thương.

5

Ở nơi đó có căn nhà mái dột

Mẹ thở dài đêm trắng đợi mưa qua…

Trên núi cao đầy hoa thơm ngào-ngạt.

Con tu tiên quên cả chuyện quê nhà!

 

 Anh lên núi buông bỏ tất cả những bụi bặm trần thế, thua-thiệt làm gì cho đời mãi long đong. Nên anh vẫn giữ cái tâm trong, mà trong cái tâm trong đó, dù kiếp này hay kiếp sau, anh cũng vẫn nhớ “chuyện quê nhà!” và anh đã thấy rằng:

“...Hôm nay trên đời

Anh em cơ-cực.

Ta ôm mặt khóc

Thân-phận làm người.”  (Kiếp Sau)

 

 Ngộ ra đây là thân phận làm người Việt Nam, một dân tộc anh hùng nhưng đã ngàn năm thăng trầm và trầm luân đau khổ. Nhưng cũng bao nhiều thế hệ trước, anh vẫn lạc quan và nguyện cùng đồng hành cùng với tuổi trẻ, với dân tộc, anh vẫn “Mơ làm đuốc soi đường đêm giá lạnh. Trong rừng đào ôm sử đợi xuân sang.” Chúng ta có thể hiểu thêm về nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du qua loạt bài Chủ đề Tiếng Gọi Núi Sông, Giáo dục Thiếu nhi, Tranh-Thơ-Nhạc, hay chỉ riêng bài Gọi Dậy Ngàn Năm và mà Giáo sư Nguyễn Văn Thái dịch ra tiếng Anh dưới đây.

 

Gọi Dậy Ngàn Năm

1

Rồi gã mù ôm mùa đông thức dậy.

Tiếng độc-huyền vang động tới ngàn năm.

Ngày Quê-Hương có gió xuân thổi lại.

Đêm linh-thiêng thơm ngát với hương trầm.

2

Đàn reo vui theo tiếng cười Uy-Viễn.

Thuở tiêu-dao ngất-ngưởng cưỡi lưng bò.

Đây núi sông,Tướng-Quân đùa với chén.

Bụi-bặm đời trôi-nổi dưới chân co.

3

Đàn giục-giã, trống đồng khi thúc trận.

Trên lưng voi thân gái trả thù nhà.

Muôn tiếng thét, quân reo tràn uất-hận.

Một cõi bờ dựng lại mặc phong-ba.

4

Đàn hào-hùng, điện Diên-Hồng sấm động.

Những cha già tóc trắng sát bên nhau.

Lời quyết-chiến tung bay theo gió lộng.

Người lên đường hăm-hở bước chân mau.

5

Đàn hiền-hòa, Đế-Vương khi mở nghiệp.

Núi La-Sơn thành-khẩn những ba lần.

Đây Quân-Đức, Dân-Tâm và Học-Pháp.

Thanh-âm này chĩu nặng ý Giang-San.

6

Đàn xót-thương, tiếng bom vang Sa-Điện.

Một ngày buồn, bão-tố ngập Quê-Hương.

Tráng-Sĩ đi một lần không để thẹn.

Rồi người người đứng dậy quyết noi gương.

7

Ta mắt mù, vui với đời cô-quạnh.

Mang yêu-thương trút xuống một dây đàn.

Mơ làm đuốc soi đường đêm giá lạnh.

Trong rừng đào ôm sử đợi xuân sang.

 

Awakening from Millennia

 

1

The blind bard from winter awakes.

The sound of his monochord resonates from millennia:

The day when Motherland enjoyed the breezes of Spring

And the sacred night was embalmed with frankincense.

 

2

The monochord is cheering along with Uy Vien’s laughter;

In a leisurely manner, he wanders here and there riding a cow,

Frolicking with a flask of rice wine in peaceful Fatherland,

Scorning all ephemeral matters that pass under his feet.

 

3

Its sound is hurrying, when the brass drums press for the battle.

On elephants’ backs the heroines seek revenge:

Through thousands of war cries, soldiers’ outrage clamors

For the rebuilding of the nation in spite of adversities.

 

4

The sound is becoming daring, when the Dien Hong Palace thunders,

By the gray-haired patriarchs shoulder to shoulder,

With the roar of the war cries ballooning the immense winds

That push people to eagerly accelerate the speed of their steps.

 

5

The sound is currently gentle: Forefather of our kingdom, Our Emperor

Has thrice sought advice from the Sage of Mount La-Son.

Here you are, “Virtues of a King, Hearts of the People, Practical Education.”

This tune is laden with multiple meanings of nationalism.

 

6

The sound now turns elegiac, when the bomb detonates in Sa Mian:

A sad day when the storms ravage Fatherland;

The hero once passed didn’t leave shame behind.

And people one after another rise up following his footsteps.

 

7

My eyes are blind, but I enjoy my loneliness:

I’m pouring love down onto the monochord,

Living the dream of a torch that lightens up the freezing cold night.

Embracing history, waiting for Spring to come again, in the cherry blossom tree garden.

Poem by Nguyễn Hoàng Lãng Du; English translation by Nguyen Van Thai

Notes: 2. Nguyễn Công Trứ; 3. Hai Bà Trưng; 5. Quang Trung và Nguyễn Thiếp; 6. Phạm Hồng Thái

 

 Nhà thơ khiêm cung lắm, trí tuệ đó, cái oai hùng đó, mà anh bảo rằng, “Ta mắt mù, vui với đời cô-quạnh” nhưng để rồi anh lại “Mang yêu-thương trút xuống một dây đàn.” Mà thiệt những người như anh, những người âm thầm làm văn hóa và giáo dục nhân bản là những kẻ bơi ngược dòng, cô quạnh và đơn côi. Có lần Vũ hoàng Chương cũng nói về tâm trạng đó--thân phận làm người Việt Nam.

“Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ,

Một đôi người u uất nỗi chơ vơ,

Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,

Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ.”

 Cảm nhận như vậy để thấy và biết rằng mọi sự trên đời đều qua những gian đoạn thành trụ hoại không. Cuộc đời chúng ta cũng thế, vốn là vô thường, có rồi không, còn rồi mất, lúc có lúc không. Nhưng bên cạnh nhà thơ luôn có những gã đồng hành; vậy thì hãy giữ lại những kỷ niệm đẹp như trong Cõi An Bình.

“Em giữ hộ mùa đông dăm giọt nắng,

Câu ngọt-ngào xót lại tự xa-xưa.

Hồn cổ-thụ, hoa sầu đơm trái đắng,

Thân trăm năm bụi-bặm thấy dư-thừa...”

 Những cảm giác bùi ngùi, khắc khoải, thế thái nhân tình cũng chỉ là những hạt bụi dư thừa mà thôi. Vậy nhé,

Mai ta lên rừng

Làm con chim nhỏ.

Lá thơm, trái đỏ

Thỏa chút rong chơi.

Mai ta xuống đồi

Làm con cá lội.

Vài hàng đá cuội

Tung tăng một giòng.

Mai ta về đồng

Làm giây cỏ lạ.

Hoa vàng nắng hạ

Uống giọt sương trong...(Kiếp Sau)

 Nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du đó, một đời lên non xuống núi, để rồi cũng ngộ rằng anh cũng chỉ là Hạt bụi bay giữa trời. Anh viết,

Thoáng nghe hạt bụi giữa trời,

Bay trong nắng hạ gọi người lãng-du.

Em về rủ gã chân tu,

Leo lên núi biếc đường mù khói sương.



 Vậy gã chân tu hãy cùng em hiểu bài kệ ngài Như Trừng như là một sự thực tập nhé, “Bản tùng vô bản. Tùng vô vi lai. Hoàn tùng vô vi khứ. Ngã bản vô lai khứ. Tử sinh hà tằng lụy.” Tạm dịch “Tất cả các Cội nguồn / Gốc rễ bắt nguồn từ nơi không gốc rễ. Mọi sự từ vô vi đến và lại trở về với vô vi. Chúng cũng không đến không đi, thì tử sinh làm sao hệ lụy được.” Bải kệ này được cụ Võ Đình dịch ra tiếng Anh như sau:

The source begins from no source

It comes from nothingness

And it goes back to nothingness

We neither come nor go

Life and death are then of no concern.

 

Sacramento, đầu hè 2017

Mừng anh về thăm California.

Bạch Xuân Phẻ

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.