Quân viện "cho" Việt Nam bị cắt đi 1,4 tỷ; và Quân viện "cho" Do Thái tăng 1,5 tỷ trong cùng năm.””
(Trích sách mới của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng: “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” )
Mười tháng sau khi Hiệp định Paris được ký kết, mùa Thu 73, Do Thái bị tấn công trong khi Nixon bị điều tra về vụ Watergate. Vậy mà Do Thái vẫn được quân viện đầy đủ. Lúc đó, báo chí Sàgon chỉ than vãn về "Cách mạng Kinh tế mùa Thu" mà không thấy nguy cơ sụp đổ vì một sự đổi chác tàn nhẫn: du di phương tiện cho Việt Nam qua Do Thái. Cuốn sách Khi Đồng Minh Tháo Chạy của Nguyễn Tiến Hưng rọi ánh sáng vào khu vực đó và đưa ra nhiều tiết lộ đáng suy ngẫm về kinh tế, quân sự lẫn chính trị…
Sau đây là phần trích dẫn từ các chương sáu, chương chín:
Cú 'sốc' nặng nhất
rơi ngay Miền Nam
Khối Ả Rập lập tức trả đũa mạnh mẽ. Hiệp Hội Xuất Cảng Dầu Lửa OPEC bỏ phiếu giảm hẳn mức sản xuất dầu thô cung cấp cho thế giới. Thế là giá xăng nhớt trên thị trường quốc tế bỗng nhảy vọt lên. Một thùng dầu thô đang từ 4 lên 12 đo la, tăng gấp 4 lần. Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết. Các quốc gia khác, nhất là những nước hậu tiến đều phải gánh chịu hậu quả lớn lao. Bao nhiêu 'Kế Hoạch Ngũ Niên' phải vứt vào sọt rác. Vật giá leo thang, lạm phát lan tràn khắp nơi.
Nói chung thì các nền kinh tế ngoài khối sản xuất dầu lửa đều bị ảnh hưởng lớn. Những thị trường không bị ảnh hưởng tức thời của giá dầu lửa là ở những nước có quan hệ với Nga Sô, kể cả Bắc Việt. Họ không bị khan hiếm vì Nga Sô vẫn chở sang lượng dầu như được ấn định hằng năm. Và vì phần lớn là dầu viện trợ nên nền kinh tế của họ ít bị ảnh hưởng vì khủng hoảng.
Còn Miền Nam thì ngược lại, chịu cú 'sốc' nặng nề và tương đối là nặng nhất thế giới! Không có nước nào bị thiệt thòi quá như Miền Nam...
Ảnh hưởng sơ khởi của cú 'sốc' là giảm ngay khối lượng nhập cảng xuống còn 67% năm 1973 rồi 54% năm 1974. Mọi hàng từ xăng nhớt, phân bón, sắt thép, xi măng, vải vóc trở nên khan hiếm.
Tình trạng này còn bị nặng nề thêm vì thị trường trong nước đã mất đi một số hàng hoá tiêu dùng quan trọng phát xuất từ hệ thống hợp tác xã PX Mỹ. Trong thời chiến, lượng hàng chui ra thị trường từ hệ thống PX không phải là nhỏ: từ thuốc lá, bia rượu, tới radiô, quạt máy, quần áo, vải vóc, thuốc men. Từ giữa năm 1973 khi quân đội Mỹ đã rút đi hết, hệ thống PX ngưng hoạt động.
Thế là giá tiêu thụ tăng vọt lên 66%, phản ảnh mức lạm phát chưa từng có bao giờ. Hiện tượng này ảnh hưởng tới tinh thần nhân dân, đặc biệt là quân độïi, một cách sâu đậm. Một người lính trung bình được lĩnh 20 ngàn đồng một tháng, sau khi mua gạo cho gia đình năm người ăn thì chẳng còn bao nhiêu để mua thức ăn, thuốc men, chi tiêu; chưa nói tới nhà cửa, giáo dục, giải trí.
Cú sốc dầu lửa còn ảnh hưởng tới mặt quân sự: đó là làm mất đi phần lớùn những kết quả của chương trình "Việt Nam Hoá." Trong kế hoạch giải kết vai trò chiến đấu của Mỹ (De-Americanization of the war) tại chiến trường Miền Nam, một chương trình gọi là "Việt Nam Hoá" được bắt đầu thực hiện vào giữa năm 1969. Chương trình này giúp canh tân quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Trước 1968, khả năng tác chiến của Quân lực Cộng Hòa hết sức giới hạn. Người lính Miền Nam chỉ được trang bị phần nhiều là súng Garrand M1 dùng từ Thế chiến II, đã quá cổ. Sau Tết Mậu Thân, mới có súng M-16, tương đương với súng AK-47 mà quân đội Bắc Việt đã dùng từ trước. Chiến xa M-48 và đại pháo 175 ly cũng chỉ được trang bị sau khi Bắc Việt mang vào Miền Nam chiến xa T-54 và đại pháo 130 ly.
Chương trình này hết sức cần thiết để giúp Miền Nam đi đến chỗ có thể tự bảo vệ lấy mình. Tuy nhiên nó có nhược điểm là việc canh tân quân đội Việt Nam Cộng Hòa lại được phỏng theo mô hình quân đội Mỹ. Đó là đánh giặc kiểu nhà giàu. Theo mô hình này, quân đội Cộng Hòa tiếp tục dựa vào hai yếu tố chính là hoả lực và di động tính (fire power and mobility). Và như vậy, về hoả lực, luôn cần bom, đạn; và về di động tính, luôn cần xăng nhớt cho trực thăng. Đó là chưa kể những vật liệu để bảo trì đại pháo, thiết giáp, oanh tạc cơ và trực thăng. Từ cuối 1973, giá bom, đạn, xăng nhớt tăng lên vùn vụt. Thế là cả hoả lực cả di động tính đều bị giảm thiểu (xem Chương 9).
Ở đây, còn phải kể tới số quân trang quan trọng (đáng giá 750 triệu Mỹ kim) mà Hoa Kỳ chuyển giao cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong một chương trình gọi là Enhance và Enhance Plus vào cuối năm 1972. Số lượng chuyển giao là để bù đắp phần nào những tổn thất do Bắc Việt tấn công năm đó ("Mùa hè đỏ lửa"). Tuy nhiên, như tướng John Murray, viên chỉ huy cơ quan DAO ở Sàigòn, đã bình luận: "Ai cũng tưởng lầm về vụ chuyển giao quân dụng cho Việt Nam Cộng Hòa. Thật ra đó chỉ là những quân dụng hư hỏng hoặc cũ kỹ, lỗi thời. Phần lớn là đồ thặng dư, đòi hỏi phải bảo trì quá nhiều."
Vì cú sốc dầu lửa, giá đồ phụ tùng cần thiết trở nên quá đắt đỏ, Việt Nam Cộng Hòa không đủ tiền mua vật liệu bảo trì, nhiều quân cụ phải nằm ụ. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa phải ôm lấy chúng như những của nợ. Đầu năm 1975, trong một buổi họp về viện trợ tại Dinh Độc Lập, ông Thiệu ví von sự kiện này như có một cái xe Cadillac mà không mua được một cái bougie để thay thế thì chiếc xe trở nên đống sắt, lại còn phải lo canh giữ cho khỏi bị mất trộm.
Mùa Thu năm 1973 đã đến với nhân dân Miền Nam như một cơn ác mộng. Bên ngoài thì cứ cho là hậu chiến, nhưng bên trong thì rõ ràng là tiền chiến: sửa soạn cho một cuộc khủng hoảng đang lởn vởn cuối chân trời.
Một tỷ rưỡi đôla
quân viện đi đâu"
Nghe tin tức bi đát về quân viện, các bạn đồng liêu của tôi thường hay bàn bạc với nhau lúc nghỉ giải lao trong các buổi họp Hội đồng Nội các vào mỗi sáng thứ tư: lý do thực tế nào đưa tới tình trạng này" Người thì cho là vì Quốc hội chán ghét chiến tranh, người thì cho là vì Mỹ bị kinh tế khó khăn (thất nghiệp và lạm phát cao) nên đã cắt viện trợ. Nhưng lý do được nhiều người đưa ra nhất là vì Mỹ cần dồn thêm quân viện cho Do Thái (Israel).
Nhìn lại lịch sử và phân tích kỹ tiến trình quân viện Mỹ cho các nước thì ta thấy lý do cuối cùng là đúng. Dù không thể chứng minh là đã có những sắp xếp để lấy quân viện dành cho Miền Nam để dồn cho Do Thái, ngày nay ta đã có thể chứng minh rõ ràng là: trong thực tế, ngân khoản 1,4 tỷ bị cắt của Việt Nam đã nhảy qua Do Thái. Bảng sau đây là bằng chứng:
So sánh tiến trình quân viện Mỹ cho Việt Nam và Do Thái , theo bảng thống kê đối chiếu về viện trợ Mỹ cho Do Thái: (đúc kết từ "Quân viện cho Do Thái", Congressional Research Service, Library of Congress, Issue brief for Congress, Updated October 17, 2002.), ta có thể thấy ngay là quân viện cho VNCH từ tài khoá 1972/73 là 2,1 tỷ đã bị cắt 1,4 tỷ còn 700 triệu cho tài khoá 1974/75.
Kết luận: Quân viện "cho" Việt Nam bị cắt đi 1,4 tỷ; và Quân viện "cho" Do Thái tăng 1,5 tỷ trong cùng năm.
Từ năm 1985, tất cả quân viện cho Do Thái đã thuộc loại "cho không" (như Việt Nam trước đây), trung bình mỗi năm là một tỷ tám trăm triệu đôla.
Ông Stephens Jones, giáo sư tại Đại học San Francisco nhận xét: "Ngày nay tổng số viện trợ cho Do Thái mỗi năm bằng một phần ba ngân sách viện trợ Hoa Kỳ cho toàn thế giới, dù dân số Do Thái không tới sáu triệu, tức là bằng 0.001% dân số toàn cầu." Và dù Do Thái là nước giầu có thứ 16 trên thế giới (với lợi tức đồng niên mỗi đầu người là 14.000 đôla).
NGUYỄN TIẾN HƯNG
(Trích sách “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, sắp phát hành)