Làm gì cho hết nửa đời sau
Gửi người ra đi: Lê Khắc Lý.
Thân gửi các bạn, bằng hữu và chiến hữu xa gần.
Thân gửi các bạn, bằng hữu và chiến hữu xa gần.
Chúng tôi có người bạn cùng khóa Cương Quyết số 2. Đại tá Lê khắc Lý đại diện đồng khóa bên Thủ Đức tại Nam CA. Tôi là đại diện đồng khóa bên Đà Lạt. Anh Lý mới ra đi. Xin báo tin các bạn rõ, cùng lời chia buồn cùng tang quyến. Ngay khi được tin bạn Lý ra đi, tôi có viết bài tâm sự đã gửi đi bốn phương nhưng dường như máy móc bị sai lầm nên nhiều bạn không đọc được. Bài viết này là tâm sự chung của chúng tôi. Cùng tuổi với anh Lý. Cũng bỏ nước hơn 40 năm qua.

Bạn Lê khắc Lý
Thời kỳ 75 có mặt ở Hoa Kỳ, trong miền đau thương vong quốc đã tự hỏi:
Ta biết làm gì cho hết nửa đời sau.
Ở Cần Thơ, chiều 30 tháng tư, ông tướng Nam tư lệnh vùng 4 đã tự hỏi: Đi để làm gì. Ông không đi. Sáng 30 tháng tư-1975, ông chọn con đường tuẫn tiết.
Còn chúng tôi, đám người ra đi từ 1975. Sau hơn nửa thế kỷ, nếu còn quanh đây, hãy ngồi xuống để suy nghĩ xem ta đã làm gì cho hết nửa đời sau. Nước mất nhà tan. Đơn vị chẳng còn. Xem ra tình anh em chỉ còn các kỳ họp khóa. Đám chạy thoát còn làm được việc vận động thả tù và gửi quà vào trại. Khi anh em bắt đầu tự do bèn gửi tiền lập hồ sơ HO và Sài Gòn bắt đầu họp khóa. Tôi gửi kém 4 hình họp khóa tại Sài Gòn và Hoa Kỳ sẽ thấy sự khác biệt qua thời gian.
Xin các bạn đọc bài Họp Khóa 2 người và cho chúng tôi biết là đã nhận được chưa. Là lớp tuổi trẻ Việt Nam sau đệ nhị thế chiến, chúng ta có 2 câu hỏi cần ghi lại; Ngày 30 tháng tư 75, bác ở đâu. Nếu bác đến được miền đất tự do sau 75, bác đã làm gì cho hết nửa đời sau.
Ở Cần Thơ, chiều 30 tháng tư, ông tướng Nam tư lệnh vùng 4 đã tự hỏi: Đi để làm gì. Ông không đi. Sáng 30 tháng tư-1975, ông chọn con đường tuẫn tiết.
Còn chúng tôi, đám người ra đi từ 1975. Sau hơn nửa thế kỷ, nếu còn quanh đây, hãy ngồi xuống để suy nghĩ xem ta đã làm gì cho hết nửa đời sau. Nước mất nhà tan. Đơn vị chẳng còn. Xem ra tình anh em chỉ còn các kỳ họp khóa. Đám chạy thoát còn làm được việc vận động thả tù và gửi quà vào trại. Khi anh em bắt đầu tự do bèn gửi tiền lập hồ sơ HO và Sài Gòn bắt đầu họp khóa. Tôi gửi kém 4 hình họp khóa tại Sài Gòn và Hoa Kỳ sẽ thấy sự khác biệt qua thời gian.
Xin các bạn đọc bài Họp Khóa 2 người và cho chúng tôi biết là đã nhận được chưa. Là lớp tuổi trẻ Việt Nam sau đệ nhị thế chiến, chúng ta có 2 câu hỏi cần ghi lại; Ngày 30 tháng tư 75, bác ở đâu. Nếu bác đến được miền đất tự do sau 75, bác đã làm gì cho hết nửa đời sau.
Xem bài viết dưới đây. Cảm ơn.
Tối chủ nhật vừa qua tại San Jose, chúng tôi có dịp tham dự tiệc ra mắt của đôi trẻ mới thành hôn. Chàng trai là cháu đích tôn của bác Đỗ Hữu Nhơn. Cô dâu là nữ bác sĩ. Nhưng chúng tôi không kể chuyện đám cưới. Dù rằng hai họ rất vui vẻ hạnh phúc. Chỉ xin ghi chuyện bên lề rằng gia đình họ Đỗ của bác Nhơn hiện là một trong số nhiều người đóng góp cụ thể và hữu hiệu vào việc trùng tu Nghĩa trang Biên Hòa. Rất âm thầm nhưng tận tụy như theo lời khấn nguyện thiêng liêng. Năm 2020 sẽ hy vọng hoàn tất vòng đầu tất cả các ngôi mộ. Xin tạm ngưng và trở lại chuyện chính. Ngồi trong tiệc vui, tôi nghĩ về thời tuổi trẻ. Suy nghĩ về chuyện hai anh bạn già chúng tôi 63 năm trước. Anh Đỗ Hữu Nhơn gốc Bắc Kỳ, cha mẹ lập nghiệp ở Quảng Nam. Năm 1954 thanh niên miền Trung và miền Nam động viên vào Thủ Đức. Khóa Tư Phụ, được đặt tên theo khóa chính là Cương Quyết. Cũng vào tháng 3 năm 1954 một đám thanh niên Hà Nội, trình diện trại Ngọc Hà. Cũng theo lệnh động viên xếp vào khóa Tư Phụ . Bọn tôi Bắc Kỳ được đưa vào học trường Đà Lạt. Đang học nửa chừng thì Tây thua trận Điện Biên Phủ. Chúng tôi ra trường tháng 10 năm 1954, Genève đã cưa đôi đất nước. Tuổi 20 gấp sách lại đứng nghe, lòng mới nở giữa tay đời ấm áp. Văn thơ của ai mà tôi vẫn còn nhớ suốt cả đời. Nhưng lời ca của Anh Bằng sửa lại thì rất não nùng. Tháng 3-1954...Tôi xa Hà Nội năm lên 18 chưa từng biết yêu...

Tháng 4- 1975... Bao nhiêu mộng đẹp, tan ra thành khói, bay theo mây chiều...