Hôm nay,  

Nơi Trú Ẩn Là Nơi Tránh Nạn

4/18/201800:00:00(View: 6342)
Tùng Nguyễn

(Hội Người Mỹ Gốc Việt Cấp Tiến)
 

Nơi trú ẩn là nơi ta có thể tìm cho gia đình cuộc sống an bình không sợ bức hại. Ở nhiều nước, nơi trú ẩn an toàn cho nạn nhân các chế độ tàn bạo là nhà thờ và chùa chiền. Vì lẽ, bảo vệ người lánh nạn là giáo lý cơ bản của phẩm chất đạo đức. Từng là di dân tị nạn, Nguời Mỹ gốc Việt biết rõ giá trị của nơi che chở và cưu mang người tị nạn. Phần lớn các di dân Việt được nhập cư vào nước Mỹ là nhờ các nhà nhân đạo trong chính phủ Mỹ đã biến nước Mỹ thành nơi trú ẩn an toàn cho tị nạn Việt.

Khi sở di trú của chính quyền Trump tăng các cuộc ruồng bắt di dân không hợp lệ, vì lý do nhân đạo, bang Caifornia lập tức ban hành ba (3) đạo luật như sau.

Đạo luật số SB 54 còn được biết đến với các tên gọi tiếng Việt là đạo luật “Thành Phố An Toàn/Thành Phố Ẩn Trú” là luật về quyền trú ẩn an toàn cho di dân, không cho phép cơ quan công lực bang California sử dụng nguồn lực công cho các hoạt động hỗ trợ sở di trú, như tiếp tay với sở di trú giam giữ tù nhân di dân vừa được trả tự do, hay chuyển giao các di dân này đến các trại giam của cơ quan liên bang, ngoại trừ những trường hợp ngoại lệ.

Đạo luật số AB 450 là luật về bố ráp di dân ở nơi làm việc, cho phép các cơ sở kinh doanh đuợc quyền từ chối yêu cầu khám xét khu vực tư nhân hay hồ sơ nhân viên nếu sở di trú không có trát toà hợp lệ.

Đạo luật số AB 103 là luật kiểm tra trại giam di dân, đòi hỏi bộ trưởng tư pháp bang California tiến hành kiểm tra các điều kiện sinh hoạt ở trại giam di dân, và yêu cầu trại giam tuân thủ các quy chuẩn chăm lo tù nhân, trong thời gian tù nhân di dân hay trẻ em không thân thuộc đang đợi xét xử hay rời trại.

Bộ trưởng tư pháp Mỹ Jeff Sessions đã khởi kiện bộ luật trên ở toà án liên bang. Vụ kiện này dự đoán sẽ thất bại vì bản tu chính án số 10 của hiến pháp Hoa Kỳ bảo vệ quyền hạn bất khả xâm phạm của tiểu bang. Truớc đây, bang California đã thắng một vụ kiện tuơng tự ở toà án liên bang.  Tuy nhiên, Westminster và vài thành phố khác đã bỏ phiếu ủng hộ hành động khởi kiện của bộ tư pháp Mỹ.

Càng thất vọng hơn nữa khi hai nghị viên người Mỹ gốc Việt trong hội đồng thành phố Westminster đã bỏ phiếu đồng ý với vụ kiện trên, mặc dù nhiều người Việt tị nạn đã một thời từng bị chính quyền và bộ máy an ninh Việt Nam áp bức, ngược đãi. Nhiều cửa hàng kinh doanh của di dân Việt đang đối diện với nguy cơ bị xáo trộn và thiếu hụt nhân viên. Nhiều di dân Mỹ gốc Việt đang bị giữ hay quản thúc ở các trại giam của sở di trú trong điều kiện sinh hoạt hết sức tồi tệ, ví dụ như ở trại giam Theo Lacy thuộc quận Cam, tù nhân di dân thuờng bị biệt giam, ép ăn thực phẩm hư hỏng, và tắm rửa trong buồng tắm mốc meo.

Một số nguời Mỹ gốc Việt biện hộ cho chính sách bài di dân của chính quyền Trump với lập luận là họ sang Mỹ với quy chế tị nạn hợp pháp, khác với nhóm di dân không giấy tờ hợp lệ.  Họ quên rằng trong thập niên 1980, nhiều thuyền nhân Việt đã sống lây lất, chờ đợi nhiều năm trong trại tị nạn vì nuớc Mỹ còn tranh cãi việc nên xếp di dân Việt vào dạng tị nạn chính trị hay tị nạn kinh tế,  Cộng đồng nguời Việt tị nạn trong thời điểm ấy đã góp phần thuyết phục chính phủ Mỹ nhận thuyền nhân dựa trên lý do nhân đạo.

Tại phiên họp hội đồng thành phố Westminster bàn về vụ kiện của bộ tư pháp, rất nhiều công dân Mỹ gốc Việt ủng hộ luật an toàn/luật ẩn trú bị ngăn không cho phát biểu hay vào phòng họp.  Rõ ràng đây là thủ đoạn thuờng đuợc áp dụng ở xứ độc tài mà nguời Việt tị nạn đã phủ nhận và rời bỏ. Đáng ngại hơn nữa là trong buổi họp nhiều nguời bản xứ chống luật trú ẩn đã phô bày bộ mặt kỳ thị khi lên giọng yêu cầu các di dân Việt hãy cút về lại Việt nam. Thật đáng tiếc khi các nghị viên Mỹ gốc Việt đã đứng về phía những kẻ kỳ thị đồng bào mình.  Sự có mặt đông đảo của bạn trẻ Mỹ gốc Việt ủng hộ luật ẩn trú chống vụ kiện ở phiên họp cho thấy lập trường của các nghị viên này đi nguợc với xu hướng của cộng đồng.

Cộng đồng Mỹ gốc Việt đã hưởng nhiều lợi ích từ chính sách nhân đạo của nước Mỹ. Vì tình nhân đạo, người Mỹ gốc Việt có bổn phận giúp đỡ các di dân cô thế.  Sống giữa lằn đạn bay, bị cộng sản cầm tù và hải tặc cướp bóc, chúng ta khao khát muốn sống, muốn tự do, muốn no ấm và an lành cho bản thân và gia đình. Chúng ta cần nơi tá túc và tránh nạn.  Đó cũng là ước mơ của người di dân đang bị săn đuổi.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.