Hôm nay,  

Viết cho Ngày Nhơn Quyền Quốc Tế (Bài 1)

5/11/201807:02:00(View: 5224)
2018-05-11 : Viết cho Ngày Nhơn Quyền Quốc Tế (Bài 1)  

Nhơn quyền , điểm hẹn của văn minh nhơn loại  

TS.PhanVăn Song

blank

Từ những bao năm nay, chúng ta cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản tại hải ngoại đã bỏ bao công sức góp cùng với các chiến sĩ dân chủ trong nước, suốt ngày đấu tranh, kêu gọi dư luận quần chúng và các nhà cầm quyền các quốc gia tiên tiến nơi mình cư ngụ, cùng nhau phải đòi hỏi, bắt buộc Nhà Nước đương quyền Việt Nam hãy tôn trọng, hãy trả lại Nhơn quyền, trả lại các quyền con người căn bản và tối thiểu cho tất cả mọi công dân Việt Nam.

I/ Nhơn quyền trong tiến trình văn minh nhơn loại:

Ngày nay ai cũng biết Nhơn quyền là điểm hẹn của văn minh nhơn loại vào đầu thế kỷ XXI. Nhưng Nhơn quyền là gì? Thường thường không được định nghĩa rõ rệt để có thể tránh những ngộ nhận hoặc những lạm dụng có hậu ý chánh trị bất chánh. Nhà cầm quyền Cộng sản Hà nội  luôn luôn đưa ra luận điệu theo đó Nhơn quyền là một khái niệm của tây phương, đặc biệt là của giai cấp tư sản, chớ không phải của Việt Nam. Sự thực, ngày nay, Nhơn quyền là một ý niệm chung của người tiến bộ. Theo ý niệm nầy, Nhơn quyền là những đặc quyền của con người được pháp luật qui định và do pháp luật chi phối, nhằm bảo vệ con người trong đời sống xã hội, giữa con người với con người và trong mối quan hệ giữa người dân với nhà cầm quyền. Nhơn quyền là nguồn gốc thực tế của sự tự do của con người. Sự tự do này đã được thể hiện thành nhiều quyền tự do cụ thể, có tiêu chuẩn rõ rệt được pháp luật bảo vệ. Trong số những quyền tự do ấy, có những thứ phải coi đó là cơ bản, không thể bị tiêu diệt, không thể chuyển nhượng, không ai, kể cả nhà câm quyền có thể xâm phạm tước đoạt. Tưởng cũng nên nói rõ, những đặc quyền ấy là những quyền tối thiểu của con người, không thể thiếu, bởi nếu không còn những quyền nầy thì con người sẽ mất hết phẩm giá, bị hạ xuống hàng súc vật.

Ở Tây phương, cố hương của Nhơn quyền phải nói là Hy-lạp và La-mã. Tuổi thọ của Nhơn quyền có lẽ đã đến 2000 năm hơn. Nhờ bởi nền dân chủ La-Hy mà Nhơn quyền, qua thời gian, đã có được những bước tiến mạnh mẽ, bắt đầu bằng sự khẳng định "quyền làm con người" (le droit d'être un homme) bao gồm những quyền tự nhiên không thể chuyển nhượng, không thể tiêu diệt. Sau đó đế quốc la mã sụp đỗ, mãi đến thế kỷ thứ XIII, Nhơn quyền ở Tây phương chợt như bừng tỉnh, sau một giấc ngủ dài trong  bóng đêm trung cỗ, nhờ sự ra đời của bản Đại Hiến Chương (Magna Carta) nhằm giới hạn bớt quyền hành của nhà vua Anh. Từ đấy, Nhơn quyền bước được những bước dài vững chắc, qua bản Thỉnh nguyện Thư Dân quyền 1628, Luật Bảo thân (Habéas Corpus) 1679, Điều lệ Dân quyền 1689 của nước Anh, Tuyên ngôn Độc lập Huê kỳ 1776, rồi Tuyên ngôn Nhơn quyền và Công dân quyền 1789 của Pháp..

Hai cuộc cách mạng Mỹ và Pháp bùng nổ vào thế kỷ XVlll đã phục hồi địa vị con người cho chính con người và đối với những kẻ cầm quyền của các chế độ chuyên chế. Từ đây, nhơn quyền đã định hình với những chìu kích rõ nét. Qua hậu bán thế kỷ qua thì Nhơn quyền đạt được những bước nhảy vọt chưa từng thấy ở thời gian trước kia.

Về bản chất , vào thuở ban sơ, Nhơn quyền tuy được hiểu là quyền tự nhiên của con người nhưng vẫn còn bị quy chiếu vào thần quyền, theo sự suy diển chủ quan của triết gia tây phương. Nhưng đến cuối thế kỷ XX thì những giá trị này đã được định chế hoá nên đã trở thành những giá trị khách quan, để không còn ai có thể ngang nhiên xâm phạm được nữa. Nhơn quyền đã trở thành những giá trị phổ quát, không giành riêng để phục vụ một lớp người nào ở một địa phương nào nữa!

Về mặt thực tế, Nhơn quyền, từ nửa thế kỷ qua, đã được áp dụng chặc chẻ hơn để con nguời trên khắp thế giới không còn phân biệt đối xữ, bị ngược đãi làm tổn thương đến mạng sống và nhân phẩm nữa. Các định chế quốc gia và quốc tế đã hiệp lực bảo vệ Nhơn quyền, đồng thời còn thăng tiến đến mức hoàn chỉnh hơn. Thật vậy, Hiến chương Liên Hiệp Quốc 1945, Tuyên ngôn Quốc tế Nhơn quyền 1948, hai Công ước Quốc tế về quyền dân sự, chánh trị, kinh tế xã hội, văn hóa 1966 đã thật sự đưa từ ngữ Nhơn quyền từ thế giới ngôn ngữ, tư tưởng qua thực tế áp dụng cụ thể vào đời sống hằng ngày của con người trên hoàn cầu. Song song với áp dụng những biện pháp chế tài  để trừng trị những vi phạm thô bạo Nhơn quyền đã được tổ chức và thực thi mà những cơ quan tư pháp hình sự quốc tế có thẩm quyền rộng lớn ra đời trong thập niên 90 của thế kỷ XX vừa qua.

Trong những năm cuối thế kỷ XX, Nhơn quyền khoác lên mình thêm một đặc tánh mới để thích ứng với sự chuyển biến của thế giới. Nhơn quyền  trở thành những cưởng chế được thực thi để nhơn đạo hóa đời sống xã hội ở khắp nơi, kể cả việc can thiệp trực tiếp vào chiến tranh, can thiệp trực tiếp vào đời sống các quốc gia có đầy đủ chủ quyền nếu phải nhằm mục tiêu bảo vệ quyền làm người ở đó. Ngày nay Nhơn quyền đã làm thay đổi hoàn toàn về quan niệm chủ quyền quốc gia  và mối bang giao quốc tế. Giá trị con người được thừa nhận là tối hậu và cao hơn mọi giá trị khác.

Phải chăng những bước tiến Nhơn quyền đã thật sự khép lại vĩnh viển một giai đoạn lịch sử dài mà suốt qua thời gian đó, những chánh sách bạo tàn của các vua chúa, của các chế độ phi nhơn quyền, phi nhơn đạo như Phát-xít, Na-zi, Cộng sản đã giết hại hằng trăm triệu nhơn mạng? Và một thời đại văn hoá nhơn quyền sẽ thật sự bắt đầu  từ nay?

Thật tình, chúng ta có thể giữ cái nhìn lạc quan ấy nếu Tàu, Bắc Hàn, Việt Nam và một số nước Hồi giáo cực đoan sẽ lần lượt sớm chuyển hoá theo thể chế chánh trị dân chủ tự do.

II / Nhơn quyền ở Việt Nam dưới thời Quân chủ:

Việt Nam chắc chắn cũng phải có một lịch sử Nhơn quyền lâu đời. Nhưng không giống phương Tây. Trong ngôn ngữ chánh trị Việt Nam trước đây không có những từ ngữ như Nhơn quyền, Dân chủ. Mãi đến thế kỷ thứ XIV những từ ngữ này từ Tây phương du nhập qua Nhựt Bổn rồi vào Việt Nam. Nói như thế không có nghĩa là vào thời ấy ở Việt Nam người dân không được sống xứng đáng với địa vị con người và những quyền lợi của mình đã không được chánh quyền tôn trọng. Xã hội Việt Nam dưới thời quân chủ đã được tổ chức theo cơ cấu nhà vua ngự trị trên cao, còn thứ dân chiếm địa vị thấp nhứt. Mỗi người có riêng bổn phận phải chu toàn. Vậy khi nhà vua làm tròn bổn phận của nhà vua thì tự nhiên  toàn dân hưởng được những phúc lợi, đại để  phù hợp với những điều mà ngày nay chúng ta gọi là Nhơn quyền.

Bổn phận của nhà Vua còn được gọi là Thiên mệnh. Còn dân chúng là nền tảng xã hội, hay dân bản. Khi nền tảng vững chắc thì quốc gia yên ổn, vững bền. Trong việc thi hành trách nhiệm của Thiên mệnh nhà Vua bị Trời kiểm soát qua đời sống của dân chúng. Bởi ý Dân là ý Trời. Nếu nhà Vua không làm tròn bổn phận của mình đối với dân, mà còn tàn bạo đối với dân chúng thì lập tức, Trời sẽ theo ý dân mà thu hồi Thiên mênh. Trong suốt dòng lịch sử Việt Nam, phần lớn các vua đều cố gắng làm tròn bổn phận đối với thần dân. Dưới những triều đại ấy, dân chúng hưởng được những phúc lợi mà ngày nay ta gọi là Nhơn quyền.

Nhơn quyền dưới thời quân chủ cực thạnh ở Việt Nam còn được nới rộng đến quyền chánh trị. Người dân nhờ tài đức, văn hóa, đều có thể tham gia chánh quyền qua các cuộc thi tuyển thường được tổ chức rất công bình. Chỉ có ngôi vua mới truyền lại trong phạm vi hoàng tộc mà thôi.

Từ thời nhà Lý, vào thế kỷ thứ XI, Việt Nam đã mở ra những khoa thi để chọn người tài ra giúp nước. Ngoài ra các chế độ Quân chủ ở Việt Nam thời xưa, chẳng những cho phép, mà còn khuyến khích mọi người hãy bày tỏ quan điểm chánh trị của mình. Quan chức và dân chúng có quyền dâng sớ phê phán triều đình hoặc bày tỏ nguyện vọng của mình. Vua Minh Mạng đã từng nhiều lần nói với các quan rằng việc nước quá nhiều mà sự hiểu biết của một người thì quá giới hạn. Bởi vậy, chúng ta cần biết ý kiến của nhiều người để có cái nhìn đúng và có giải pháp thích nghi.

Về mặt luật pháp, các chế độ quân chủ ở Việt Nam thời xưa đều quan tâm đến việc bảo đảm cho dân chúng có một xã hội công bằng, lấy đạo đức làm nền tảng. Hai bộ Luật còn được sử dụng cho đến thập niên 1970 – thời Việt Nam Cộng hòa chúng ta, dĩ nhiên với những cải tiến, đó là "Quốc Triều Hình Luật" "Hoàng Việt Luật lệ" Hai bộ Luật  này phạt rất nặng, có khi tử hình, những tội phạm quan chức sách nhiễu, tham nhũng, hối mại quyền thế qua trung gian vợ con, người thân trong họ hoặc gia nhơn. Án tử hình thường phải do nhà vua quyết định cuối cùng. Hai bộ Luật nầy đều rất tôn trọng nữ quyền. Hình phạt dành cho phụ nữ luôn luôn nhẹ hơn. Trong gia đình, về quyền lợi, người phụ nữ có đầy đủ quyền lợi như người đàn ông. Quốc Triều Hình Luật qui định rõ thời hạn các vụ án phải được kết thúc nhanh để tránh mất thì giờ của đôi bên. Điều này được xem là rất tiến bộ so với một số quốc gia phương Tây ngày nay.

Về kinh tế xã hội, chế độ Quân chủ Việt Nam quan tâm bảo đảm cho mỗi người dân có được một đời sống tối thiểu bằng cách cấp phát cho mỗi người một phần đất để tự mưu sanh. Từ thời nhà Lê, vua Lê Thái Tổ đã thực hiện chánh sách cải cách ruộng đất, trưng thu ruộng đất của các triều đại trước, của những quan chức làm giàu bất chánh, của những người không có thừa kế để cấp phát đồng đều cho dân chúng canh tác. Việc cấp phát này được xét lại mỗi bốn năm. Về sau, việc xét lại theo mười năm một lần.

Qua thời nhà Nguyễn, nhờ mở mang trong Nam, nên việc cấp phát ruộng đất được rộng rải hơn, và giao cho địa phương đảm trách. Nhà Nguyễn còn nghiên cứu trưng tập các tư điền của nhà giàu lớn, lấy 3/10 diện tích để xung vào công điền cấp phát cho cô nhi quả phụ thương phế binh. Dưới thời  quân chủ cực thạnh ở Việt nam, người dân tương đối đều được hưởng khá đầy đủ các quyền lợi mà ngày nay chúng ta gọi là Nhơn Quyền.

III / Nhơn quyền ở thời dưới thời Quốc gia và Cộng Hòa:

Suốt từ 1949 đến 1975, trãi suốt ba thời kỳ : Quốc gia Việt Nam, Đệ Nhứt hay Đệ Nhị Cộng hòa ;   từ ban sơ, vừa lấy lại chủ quyền từ tay thuộc địa Pháp, qua đến những thời gian phôi thai tập tững, vừa xây dựng một quốc gia tân thời, tự do, tiên tiến, vừa phải luôn luôn chiến đấu giữ nước, đương đầu với giặc Cộng Sản ngoại lai, trong một môi trường chánh trị chưa trưởng thành, nhưng, luôn luôn vẫn giữ cung cách và đạo đức nhơn bản, tôn trọng những quyền căn bản và nhơn phẩm  của mọi công dân Việt Nam.

Thât vậy, suốt dưới chế độ của ba thể chế Việt Nam Tự do ấy - Quốc gia hay Cộng hòa – và cả ngay từ ngày vừa lấy lại Độc lập và Chủ quyền từ tay Pháp ấy, ngay từ tháng 7 năm 1949, trong cái giai đoạn khó khăn ban đầu ấy cho đến năm 1954, suốt ròng rã 5 năm, đã, cùng với toàn dân cả nước, từ Ải Nam Quan đến Mủi Cà Mau, vừa xây dựng, vừa chiến đấu. Quốc Gia Việt Nam với Cựu Hoàng Bảo Đại là Quốc Trưởng ngay lúc, vừa lấy Độc lập, Tự do lại từ tay thực dân Pháp ấy, đã phải vừa Việt Nam hóa hoàn toàn hệ thống hành chánh, các chương trình giáo dục, các cơ sở kinh tế thương mại và cơ chế chánh trị ; lại vừa phải tổ chức cơ sở và đơn vị quân sự để chiến đấu cạnh quân đội Pháp chống giặc của trục Đỏ Cộng Sản quốc tế Sô-Tàu-Việt Hànội-Bắc-Kinh-MặcTưKhoa ! Nhưng vẫn tôn trọng các quyền tối thiểu của người dân, báo chí, thông tin, đi lại ...

Từ năm 1954 đến năm 1963, trong 9 năm liền của Đệ nhứt Cộng Hòa, khi vừa yên được tiếng súng, đất nước lại bị chia đôi, Việt Nam Quốc gia Tư do của chúng ta, nay chỉ còn nửa nước phía Nam,  lại phải nhận thêm 1 triệu đồng bào ruột thịt di cư, lại phải một lần nữa, trong cái khó khăn, của buổi ban đầu, của thờI thơ ấu, bơ vơ, không đồng minh tiếp liệu, đở đầu dẫn đắt,, Pháp vừa bỏ đi, Mỹ chưa đến, phải tiếp tục vừa xây dựng nước, tái lập trật tự, cũng cố chế độ Cộng Hòa, với  bản Hiến Pháp, đồng thời cũng phải đấu tranh giữ vững nền Dân chủ Tự do Nhơn bản, nên phải tiếp tục vừa tổ chức nền hành chánh quản trị nước, vừa xây dựng xã hội, giáo dục huấn nghề đào tạo thanh thiếu niên, vừa cũng cố quân đội để chiến đấu tự vệ bảo vệ nước khỏi giặc đỏ ngoại bang.

Nhưng trong 9 năm nầy của nền Đệ Nhứt Cộng Hòa chỉ được 6 năm là Nhơn quyền ở Việt Nam nở rộ, cả chục tờ báo, tự do ngôn luận, đa ngôn, đa văn, tự do đi lại, thương mãi, thông thương xuyên Việt, và mọi tôn giáo được tôn trọng. Cũng vì quyền tự do ngôn luận được quá tôn trọng, cũng vì quyền con người được quá tôn trọng, nên hết phản khán nầy, đến xuống đường nọ. Hết nhóm trí thức Caravelle họp ra thư ngõ, đến phe Phật Giáo xuống đường…tuyên ngôn, nên dễ dàng bị Cộng Sản trà trộn nội tuyến xáo trộn đất nước, nên 3 năm sau từ 1960 trở đi đến 1963 là tình hình chánh trị của đất nước bị khủng hoảng đưa đến nền những ngày đầu Đệ nhị Cộng hòa đầy hỗn loạn…

Từ 1963 đến 1975, Nhơn quyền vẫn luôn luôn được tôn trọng. tuy ở trong thể chế một Việt Nam hoàn toàn trong tình trạng chiến tranh. Việt Nam Cộng Hòa không lúc nào đưa tình trạng thiết quân luật lên hàng đầu...Sài gòn vẫn tiếp tục bị bọn phản chiến thân Cộng nằm vùng xáo trộn cuộc sống, nào biểu tình, nào xuống đường, ... hết ký giả ăn mày, đến linh mục, thầy chùa chống tham nhũng. … Nhưng chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ tuyên bố kỹ luật sắt, tình hình quân sự – état de guerre  hay tổ quốc lâm nguy – la patrie en danger – cho phép bắn bỏ tại chổ những ai là phản quốc - như bọn Việt Minh đã làm thời khánh chiến. Nhơn quyền vẫn được tôn trọng, tiếng nói phản khán vẫn được tôn trọng.      

    

Để Kết Luận :

Chiếc ghế của NN Như Quỳnh ở Thụy Điển

Một chế độ dân chủ tự do nhơn bản, biết tôn trọng nhơn quyền, đó là một hãnh diện nhưng đó cũng nhược điểm của con người Việt Nam quốc gia, nhơn bản tử tế, đầy tình người !

Đó nhơn cách của người Đại Việt hào hùng, của người Đại Việt với một nền văn hóa nhơn bản.

Chúng ta, những người con Việt, nguyện luôn luôn tranh đấu để mãi mãi giữ vững một quốc gia Đại Việt, một văn minh Đại Việt, một văn hóa Đại Việt đầy nhơn bản, đầy tình người, trọng nhơn quyền, trọng tất cả mọi quyền căn bản tối thiểu của con người !

Xong bài 1

Tuần tới : Nhơn quyền với cái nhìn Cộng Sản ;

Nhơn quyền cũng là quyền của người dân nổi dây lật đổ bạo quyền.

Hồi Nhơn Sơn, Ngày Nhơn quyền 11 tháng 5

TS.PhanVăn Song

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.