Hôm nay,  

Thơ Vĩnh Hảo

11/09/201819:43:00(Xem: 4699)

Nhớ người

 

Nhớ người phương xa

Mỗi ngày đi quanh thấy bốn phương mây trắng

Ôi nhớ làm sao tiếng nói giọng cười

Ngỡ hôm nào em còn quanh tôi

Tay nắm lấy tay ân cần níu kéo cuộc tình

Mắt buồn đọng lại cả trời thương yêu

 

Có những phút riêng ngồi bên hiên vắng

Không dám tin rằng mây bay qua trời sẽ kịp đến phương em

Xa, thật xa, nơi em chuẩn bị giấc ngủ

Cũng có mây trắng êm đềm giăng ngang trời đêm hạ

Nhưng mây trắng nơi này thì tan theo nắng gió trên cao

và tóc bạc nơi này rụng xuống từng chiều quạnh quẽ

 

Tình yêu, chẳng phải điều chi lạ lẫm

Có khi chỉ là một thoáng buồn vui trên khóe mắt môi cười

Mà nỗi nhớ, em ơi

Dài thăm thẳm qua nghìn trùng mây trắng...

 

(2004)

 

 

 

Phần tim mẻ

 

Sang thăm em tim anh mẻ một miếng

Gửi lại làm quà ghi dấu một mùa yêu

Em đã làm gì bên ấy với phần mẻ bé xíu chẳng ra chi

Mà nơi đây đau hết phần còn lại!

 

(2004)

 

 

 

Quên chưa

 

Quên chưa mây tóc trên ngàn

Quên chưa mắt ướt tiễn hoàng hôn đi

 

Ta đi còn tiếc nuối gì?

Dấu chân trên nước

còn ghi tình hờ.

 

 

Tình Sầu

 

Gửi nhau một biển nhớ

Giữ lại hai trời thương

Tình xa một bước lỡ

Sầu dâng muôn nẻo đường.

 

 

Bâng khuâng

 

(Phi trường Denver, Colorado, chiều ngày 05/01/2006) 

 

Ngồi bên nhau, lặng lẽ không nói

Sách trên tay mỗi người một cuốn

Mở ra hai thế giới dường như khác nhau:

Em đi vào thế giới yêu đương tiểu thuyết

Anh vùi đầu trong triết lý siêu nhiên

Nhưng đôi mắt âm thầm liếc nhìn và thăm dò nhau thì sao mà giống!

Muốn nói gì mà cứ lặng thinh

Khép-mở chờ nhau, nhân duyên nào ở quá khứ hay vị lai thăm thẳm

Lục lọi trong mơ hồ dáng quen

Không có gì, dường như không có gì

Chỉ là chút lao xao trên biển tình vô tận

Ngả đầu, tựa vai, ngủ bên nhau từng giấc vô minh dật dờ

Quờ quạng moi tìm trong ký ức xưa

Nhân duyên ơi, đâu là nơi chốn hẹn hò, đâu là ngày tháng yêu thương buồn nhớ với bóng hình kề cận nơi đây?

Mà trùng trùng ngổn ngang hàng hàng cánh hoa đẹp thắm

 

Bàn tay im lặng gác trên triền núi câm

Nhẹ hẫng nghìn năm khung trời không-tính

Tóc vàng phương tây thả xuống bờ tay phương đông

Nặng cả trăm năm giấc mộng bình quyền

Tình yêu chơi vơi hai bờ mộng-thực

Thức dậy nhìn nhau bẽn lẽn sửa đầu dụi mắt

 

Yểu điệu mê hồn dáng hồng tây phương

Hành trang kéo theo nhẹ một thoáng tình

Lẽo đẽo theo sau lãng tử mơ màng

Còn gì nữa không sau phút biệt ly này?

Ôi, tóc chiều bay vàng cả trời thu

Mắt xanh nghịch ngợm khua sóng biển đa tình

 

Bất ngờ ngoảnh lui, em trao nụ cười bí ẩn

Gửi lại xa xăm chút duyên tao phùng bất định

Rồi tây với đông quay lưng, ngược hướng

Thoáng chốc mất tăm trong chập chùng nẻo lạ

Bâng khuâng nán lại buồn mấy nghìn năm.

 

 

Vị ngọt

 

Em về bỏ lại ly cà-phê

Chất đắng thay em, anh uống cả

Vị ngọt để dành cho phần em

Mai sau gặp lại sẽ trao trả.

 

 

Thuyền thu

 

Trăng chợt về rung mắt ai sóng sánh

Hay mắt sầu nghiêng lệch bước phiêu du

Vàng theo trăng loang dài sông nước quạnh

Tình theo người ăm ắp một thuyền thu.

 

 

Dạ khúc

 

Mắt biếc mơ màng rung hồn ai một thuở

Đã khép lại dấu tích trăm năm

Tôi đi ngõ ấy tình xưa cứ ngỡ

Sáng lung linh vũ khúc đêm rằm. 

 

 

Đành cất

 

Đêm nay rừng không ngủ

Bàng bạc ánh trăng soi

Chưa nói

Lời đã cũ

Tình riêng đành cất thôi.

 

 

Đêm Diệu Huyền 

 

Tình đã chôn mà mắt ấy hãy còn xanh

Xanh giấc mơ tôi

Xanh con đường mê vọng

Lẩn thẩn yêu em tôi theo lối cũ

Màu mắt mang về thắp sáng những đêm

Ôi đêm diệu huyền! vây tôi một màu xanh sáng

Tôi muốn ôm em ru say tình mộng

Mà vòng tay

Lạnh buốt bóng hư không

 

Diệu huyền ôi những đêm xanh sáng

Đến với tôi, hãy đến với tôi

Cho dù hư ảo mộng tình câm

Tôi vui trong bóng em xanh biếc

Tôi đắm mơ màng hương em dâng

Mà em cứ tan, tan trong cõi chơn thường ấy

Bỏ tôi lại nơi bến huyễn hư hao

 

Tôi đứng nơi đây mỗi chiều nắng tắt

Hát bản tình ca không tiếng không lời

Đêm về xanh xanh màu xanh đáy mắt

Giốc cạn tình em trong âm sắc tuyệt vời.

 

 

Đôi mắt

 

Ai nhốt mùa thu trong mắt em

Bâng khuâng hồ quạnh nước êm đềm

Khói sương man mác đưa hơi giá

Lạnh cả hồn anh đêm từng đêm

Ôi em diễm kiều tha thướt quá

Sáng cả màu đêm không trăng sao

Mà sao mắt sầu vẫn man dại

Dìm đắm đời anh bến bãi nào...

 

 

Đôi môi

 

Nụ cười nào tàn trên môi tươi

Không giấu nổi kiêu sa một thời

Anh đến bên em một chiều nắng nhạt

Dâng lời yêu cho tình sầu vơi

Ôi môi trăm năm ngất ngây hồn phiêu bạt

Nét xuân thì còn ngọt thơm hoa

Say hôn em một đêm hò hẹn

Đáy tình này vương mãi một màu môi...

 

VĨNH HẢO

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.