Hôm nay,  

Trịnh Cung, Một Kiện Tướng Trong Hội Họa

6/9/201900:03:00(View: 10887)

TRỊNH CUNG, Một kiện tướng trong hội họa

 

Đặng Phú Phong

 

blankTrịnh Cung

 

Sau hai lần triển lãm cá nhân ở Nam California, một, vào năm 1997 tại vùng Little Saigon, và lần hai, vào năm 1998 tại gallery LA Artcorp thuộc thành phố Los Angeles; ông đã quay lại Sài Gòn, VN để (tưởng rằng) trút bỏ chiếc thân cát bụi trên quê hương vì bị bệnh nan y. May mắn thay phép lạ đã đến với ông, tại nơi này ông không chữa trị gì mà đã khỏi bệnh. Không những thế, ông còn có thêm được một tình yêu mới mẻ, nồng nàn cuả nhà thơ trẻ Phương Lan và hiện là vợ của ông.

 

 Sắp tới, ngày Thứ Bảy 15/6/19 sẽ là ngày triển lãm cá nhân của ông một lần nữa tại nhật báo Người Việt vùng Little Saigon. Phòng tranh sẽ mở cửa từ 11 giờ sáng 15/6/2019, họa sĩ ký tên trên sách tặng từ 2:00PM ngày 15/6/2019, và triển lãm trong hai ngày 15 và 16/6/2019. Mặc dù HS Trịnh Cung đã triển lãm rất nhiều lần, nhiều nơi trên thế giới, nhưng lần thứ ba (triển lãm cá nhân) trên vùng đất có hơn ba trăm ngàn người Việt, một Sài Gòn thu nhỏ với đầy đủ ngành nghề, nhất là về mảng văn học nghệ thuật và báo chí, ông không khỏi có nhiều bận tâm của một người nghệ sĩ thấm đẫm sự cầu toàn nên đã cố gắng rất nhiều trong công việc chuẩn bị triển lãm.

blank

 

Mở đầu, ông đã xuất bản tập “TREO TRÊN GIÁ VẼ, Hanging on The Easel” từ tháng 3/19. Sách do Văn Học Press ấn hành, Mekong Printing ấn loát tại California. Đây là một tập sách về hội họa rất công phu; sách in toàn giấy trắng dày, láng. Bìa là bứ tranh Treo Trên Giá Vẽ, một tác phẩm nổi tiếng của ông. Phần ngôn ngữ, tất cả đều dược dịch ra tiếng Anh. Phần tranh được in rất công phu, rõ, tỉ mỉ từng nét và giữ được màu nguyên tác đến 80-90 %.

 
blank

Xin điểm sơ qua phần nội dung của cuốn sách:

Đây chính là một hồi ký về sự nghiệp hội họa của HS Trịnh Cung trong suốt 56 năm (1962-2018). Trong Lời Ngỏ, sau khi trình bày những khó khăn trong việc xuất bản một cuốn sách về hội họa “Trong việc có liên quan đến lịch sử, quá khứ, cả quan điểm làm nghệ thuật theo hướng tự do tư tưởng nên không tránh khỏi khác biệt và đụng chạm. Do đó sách không thể phổ biến rộng rãi ở Việt nam hiện thời.

Tuy nhiên tôi tin tưởng vào tình yêu hội họa, tin vào trái tim mình luôn đập theo tiếng gọi của Cái Đẹp và sự tiến bộ nên xin được giữ mãi tính cách và tư duy nghệ thuật ấy cho đến phút cuối cùng.”(*)

  

 
Đó chính là tính cách của Trịnh Cung, một con người khí khái, sẵn sàng đương đầu với cam go, chiến đấu với những điều ông cho là bất công trong xã hội và những gì giả nghệ thuật, phi nghệ thuật; cũng chính cái tính cách này mà ông đã làm cho nhiều người không hài lòng. Và, Trịnh Cung đã bất cần!

 

Trong phần “20 Câu Hỏi Cho Bản Tự Khai” là dạng tiểu sử tóm lược của tác giả. Qua đây chúng ta có dịp hiểu khá nhiều một người tên Nguyễn Văn Liễu, tên khai sanh của HS Trịnh Cung, gốc gác Quảng Nam, từng làm thơ (bút danh Thương Nguyệt).

 
blank

Năm 1963 là một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp hội họa của Trịnh Cung; ông đã bỏ dạy vẽ cho trường Trung Học Kỹ Thuật Cao Thắng, lên Đà Lạt sống chỉ để vẽ. Cũng trong năm này vinh quang đầu đời của sự nghiệp hôi họa đã đến với ông. Bức tranh “Người Ngồi” của ông đạt được Huy chương Đồng, giải “Hội Họa Mùa Xuân” và bức tranh này được Việt Nam chọn gửi đi dự giải “Triển Lãm Lưỡng Niên Paris 1963”. Sự thành công này của ông và trước đó, năm 1962, bức “Mùa Thu Tuổi Nhỏ” là một trong 17 tác phẩm chính thức đại diện cho Hội Mỹ Thuật Việt Nam tham gia triển lãm cùng với 19 quốc gia khác là một khí thế bừng bừng cho một tài năng, một tên tuổi lớn trong nền hội họa Việt Nam sau này.

 
blank

Năm 1964 Trịnh Cung vào quân ngũ, trở thành sĩ quan huấn luyện tại trường Sĩ Quan Thủ Đức; 1966 ông tham gia Hội Họa Sĩ Trẻ với chức vụ là Tổng Thư Ký. Ông luôn luôn tự hãnh diện là mình đã được đào tạo từ một nền giáo dục rất nhân bản của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Rồi theo “Vận nước nổi trôi” HS Trịnh Cung phải vào trại “cải tạo” sau 1975 hết 3 năm, không vẽ 11 năm. Sau đó ông đi đi về về giữa Việt Nam và Mỹ, triển lãm nhiều nơi và được một số trường đại học của Mỹ mời thỉnh giảng về hội họa. Cho đến năm 2013 mới chính thức định cư tại Mỹ.

 

Trên con đường sự nghiệp, qua cách phân chia những giai đoạn, tôi thấy ở ông một sự làm việc thật nghiêm túc, tiến bước một cách vững chắc. Trong hai thời kỳ vẽ theo trường phái Biểu Hiện (Expressonism) và trường phái Trừu Tượng (Abstractism) ông đều có thời kỳ đầu (First Period). Chứng tỏ ông đã rất cố gắng đào tạo cho chính mình, học hỏi qua báo chí, sách vở; thực hành với chính những gì đã thu thập được rồi mới tiếp tục dấn bước vào những điều mình quyết tâm. Thử đưa ra vài khác biệt của hai giai đoạn khi ông vẽ theo Biểu Hiện:

 
blank

Trong giai đoạn 1962 – 1975 phần màu sắc, Trịnh Cung luôn có gam màu tối, nặng nề, nhiều chi tiết và hình thể hơn hơn giai đoạn 1986 – 1992. Hai bức “Mùa Thu Và Tuổi nhỏ, Huy chương Bạc-1962) và “Hòa Nhạc Trên Sa Mạc- 1987) là điển hình. Giai đoạn đầu ông cho chúng ta thấy được những ưu tư, khắc khoải của một tâm hồn nghệ sĩ trước cuộc chiến tranh tàn khốc và những đớn đau của tuổi thanh thiếu niên đã và đang bị tàn phá bỡi một cuộc chiến không nên có, không đáng có của Việt nam. Những vệt màu, những hình thể cứ như chen sát vào nhau, chen chúc, dày xéo tựa như bầu không khí đậm đặc, hôn ám đè lên từng chi tiết hữu cơ. Qua phần Hai, sau hơn mười năm không vẽ được, ông lại có cơ hội cầm cọ trở lại, phần lớn là do chính sách cởi trói. Tuy nhiên, sự ghét bỏ một xã hội ô trọc, bất công vẫn còn đó bàng bạc trong tác phẩm của ông, dẫu rằng màu sắc có sáng hơn, hình thể có nhiều khoảng cách hơn.

 

Trong thời kỳ vẽ theo Trừu Tượng, tôi cho rằng là thời kỳ rất sung mãn, tài hoa của Trịnh Cung, như một bông hoa bừng nở mãn khai, kiêu hãnh khoe sắc trước mọi thời tiết. Những bức tranh màu sắc sang cả, óng mượt dù cho ông vẽ với gam màu nâu là chủ đạo hay xanh, đỏ, xám đều trong veo, nhuyễn sắc. Tài hoa Trịnh Cung phát tiết trong thời kỳ này quả thật tuyệt vời. Tôi cũng đồ rằng sự nghiệp của ông, sau này, những nhà phê bình cũng sẽ căn cứ từ thời kỳ vẽ Trừu Tượng của ông như là một căn bản trong sự nghiệp của người họa sĩ tài ba này.

 

Trịnh Cung cũng vẽ nhiều tranh chân dung, đa phần là cho bằng hữu và nhất là những bức tranh khỏa thân sắc sảo, nóng bỏng nhưng không hề có sự dung tục, đây cũng là cái cần câu cơm của người họa sĩ nghiêm khắc với tác phẩm này. Ngoài ra ông còn bỏ ra gần hết cả năm trời (2013) chỉ để vẽ (bằng chì than - Charcoal) những cây sồi trụi lá, đúng hơn chỉ là thân và nhánh. Những thân, nhánh của cây sồi đen nhẻm, sần sùi và vặn vẹo mang hình tướng của những con người oằn oại trong sự nghèo khó trong xã hội và cả với thiên nhiên khắc nghiệt; dẫu rằng những cây sồi kia mang nhiều ý nghĩa yêu thương, bão bọc theo trong huyền thoại. Tôi cho rằng tất cả giàu, nghèo, tự do hay nô lệ, tất cả đều phát sinh từ sự cần cù, nhẫn nại như câu sồi thương tích của cả trăm năm.

blank

 

Tôi cũng đặc biệt chú ý và vô cùng thú vị với loạt tranh vẽ trong hai năm 2017 và 2018 mà ông gọi là Hiện Thực Đơn Sắc (Monochromatic Realism).  Loạt tranh gồm 12 bức khổ lớn (80x120 cm) có 8 bức ghép lại thành 3 tiêu đề và 4 bức riêng lẻ; chỉ vẽ đen trắng. Đây là loạt tranh mà ông khai thác chủ đề về người nghèo khổ mới nhập cư vào Mỹ, cũng là người họa sĩ gốc Việt đầu tiên đề cập đến vấn đề này. Khác với những cái nhìn về một cuộc sống sung túc cho những người di dân vào Mỹ. HS Trịnh Cung đã nhìn họ, trong đó ông lấy ông như một ví dụ, là những người ở đáy của xã hội, làm những công việc cực nhọc, đôi khi phải làm kẻ không nhà (Homeless) nhưng vẫn phải ăn, phải đi shopping như mọi người dân khác. Ngay từ những ngày đầu, Trịnh Cung cũng đã nắm bắt được cái tính cách rất tượng trưng của người Mỹ: Làm việc và tiêu dùng phải luôn song hành. Trong 8 bức tranh này, như: Tôi Đến Đây, Trần Truồng hay Cái Mền Mua ở Goodwill...hay Xin Đi Chỗ Khác là biểu tượng cho những người Việt mới nhập cư nghèo khó, vẫn còn giữ nguyên tính cách, bản chất cần cù, tranh đấu, giành giật từ một quê hương khốn khó. Họ đang có một đời sống lam lũ, làm việc cật lực, trong đó có tác giả đến Mỹ với cây cọ (Brush) và tấm palette đang tự thôi thúc, tranh đấu với chính mình để vẽ một điều gì đó cho nhân sinh cho nghệ thuật. Tôi rất xúc động và rất thích thú trước bức tranh “Cái Mền Mua Ở Goodwill”. Trịnh Cung đã đưa gia đình 3 người của ông thành nhân vật vào tranh, vợ chồng cùng ôm đứa con thơ, quấn chung quanh bằng một chiếc mền mua ở Goodwill (nơi bán lại quần áo, đồ gia dụng v.v. do người dư thừa giàu có hiến tặng). Bức tranh không buồn không vui, nhưng, nó thể hiện được một sự thương yêu, chấp nhận hoàn cảnh sống qua đôi mắt vừa nồng nàn tình cảm vừa nhìn phía khoảng không đàng sau người chồng với thái độ gửi trao và chấp nhận. Thằng bé thì mở tròn đôi mắt thơ trẻ, đen láy nhìn vào bờ vai người mẹ như nhìn vào tương lai của nó. Loạt tranh này cho chúng ta thấy được 2 điều: Bút lực vẫn còn sung mãn ở tuổi Tám mươi và sự luôn luôn sáng tạo của một họa sĩ tài danh Trịnh Cung. Ông là một người rất am tường lý thuyết hội họa, luôn luôn tự tin. Trong những lập luận của ông luôn luôn có phần mở, nhưng không phải vì vậy mà thiếu chính xác. Ngoài tài năng về hội họa cả về lý thuyết và thực hành, Trịnh Cung còn làm thơ rất hay, viết bình luận thật sâu sắc. Một người bạn thân là NS Trịnh Công Sơn phổ nhạc một số bài thơ của ông; có một bài rất nổi tiếng là “Cuối cùng cho một tình yêu”, thời đó (khoảng 1958) mà Trịnh Cung đã bắt đầu bài thơ như sau:

“Ừ, thôi em về chiều mưa giông tới.

Bây giờ anh vui, hai bàn tay đói…”

Chứng tỏ cách dùng chữ của ông rất mới, đi trước khá nhiều thi sĩ cùng thời.

 Trịnh Cung quả là người đa tài và cũng đa cảm, ông xứng đáng là một họa sĩ lớn, một nghệ sĩ lớn của Việt Nam.

 

Đặng Phú Phong

3/6/19

Chú Thích:

(*) Treo Mình Trên Giá Vẽ, trg. 9.

 

 

Phòng tranh sẽ mở cửa

từ 11 giờ sáng Thứ Bảy 15/6/2019

tại  hội trường nhật báo Người Việt

14711 Moran Street, Westminster, 92683

 

Họa sĩ ký tên trên sách

từ 2:00PM ngày 15/6/2019

Sẽ triển lãm trong hai ngày 15 và 16/6/2019.


XEM: Họa sĩ Trịnh Cung mời đồng hương xem tranh ngày 15 và 16/6/2019
https://vietbao.com/a295110/hoa-si-trinh-cung-moi-dong-huong-xem-tranh-ngay-15-va-16-6-2019 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.