Hôm nay,  

NHÀ THƠ SINH NĂM TÝ - TẢN ĐÀ

24/01/202000:00:00(Xem: 7708)
TanDa_49
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu


Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1888 (tức ngày 29 tháng 4 năm Mậu Tý), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, nơi có núi Tản sông Đà. Thân sinh ông là Nguyễn Danh Kế, đỗ Cử nhân, từng giữ chức Ngự sử trong kinh. Mẹ là Lưu Thị Hiền, cũng có sách ghi là đào Nghiêm, vốn là một đào hát, nổi tiếng tài sắc, giỏi văn thơ.

    Vốn dòng khoa bảng tài hoa,  Tản Đà nổi tiếng thi phú từ nhỏ, nhưng hai lần đi thi đều hỏng,  từ năm 28 tuổi,  Tản Đà quyết định sống bằng  nghề cầm bút, vào Nam ra bắc làm báo: viết  tuồng cho các  đoàn hát, làm chủ bút  Hữu Thanh tạp chí, lập nhà sách nhà in Tản Đà thư cục, sáng lập An Nam Tạp chí,  số 1 ra ngày 1/7/1926. Đây là tờ tạp chí đầu tiên chuyên về văn học tại Việt Nam.

    Báo Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn nhiều lần vẽ hí hoạ chê Tản Đà là thi sĩ theo kiểu “tửu nhập thi xuất.” Bị đả kích là chán đời, yếm thế, ông nói  trongmột lần diễn thuyết để trả lời Phạm Quỳnh, “Người mà không biết chán đời thì có khác gì lợn.”

   Những năm cuối đời, Tản Đà sống nghèo khổ và báo Ngày Nay mời ông dịch Đường thi trong hai năm 1937 -1938. Nhờ vậy mà có bản dịch Hoàng Hạc Lâu tuyệt tác. Thi sĩ mất vì bạo bệnh ngày 17 tháng 6 năm 1939, khi mới 51 tuổi.

 

Khai Bút Năm  Canh Thân 1920

 Năm nay tuổi đã ba mươi hai

Ta nghĩ mà ta chẳng giống ai.

Khắp bốn phương trời không thước đất,

Địa cầu những muốn ghé bên vai!

  

Khai bút năm Tân Dậu 1921

Năm nay tuổi đã ba mươi ba

Ta nghĩ mà ai chẳng giống ta.

Lo nước, lo nhà, lo thế giới,

Còn thêm lo nợ, nghĩ chưa ra!

 

Mậu Thìn xuân cảm

 

Cuộc thế xoay quanh đất một hòn

Sông chưa cạn đó, núi chưa mòn.

Dân hai nhăm triệu, ai người lớn ?

Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.

Cám cảnh khói mây mờ mặt biển,

Lo đời sương tuyết bạc đầu non.

 

Ngày Xuân Tương Tư

 

Trách cái tằm xuân nhả mối tơ

Làm cho bối rối mối tương tư.

Sương mù mặt đất người theo mộng,

Nhạn lảng chân trời kẻ đợi thư.

Nghìn dặm dám quên tình lúc ấy

Trăm năm còn nhớ chuyện ngày xưa.

Tương tư một mối hai người biết

Ai đọc thơ này đã biết chưa?

  

Ngày xuân thơ rượu

 Trời đất sinh ra rượu với thơ

Không thơ không rượu sống như thừa!

Công danh hai chữ mùi men nhạt,

Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ.

Mạch nước sông Đà tim róc rách,

Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ.

Còn thơ còn rượu còn xuân mãi,

Còn mãi xuân, còn rượu với thơ.

Gặp xuân

 

Gặp xuân ta giữ xuân chơi,

Câu thơ chén rượu là nơi đi về.

Hết xuân, cạn chén, xuân về

Nghìn thu nét mực xuân đề vẫn xuân!

 

Vui Xuân

 

Tin xuân đến ngọn cây đào

Bảo cho hoa biết ra chào chúa xuân.

Mỗi năm xuân đến một lần,

Thiều quang chín chục xoay vần chẳng sai.

 

Ngày xuân còn mãi không thôi

Tuổi xuân ai dễ xanh rồi lại xanh?

Đường mây những khách công danh,

Mày râu cụ lớn thay hình thanh niên.

Thành sầu mấy ả Khâm Thiên,

Én oanh dẫn lối con thuyền Tần Dương.

Làng văn mấy bạn văn chương

Bút hoa án tuyết, hơi sương mái đầu.

 

Tiểu thư ai đó tựa lầu

Thơ đào chưa vịnh, mai hầu bảy ba.

Trời xanh trời cũng khi già

Xuân xanh xanh mãi đâu mà hỡi ai!

Gặp xuân ta hãy làm vui,

Kẻo nay xuân đến kẻo mai xuân về.

Vui xuân rượu uống thơ đề.

 

Đời Đáng Chán

 

Người đời thử ngẫm mà hay

Trăm năm là ngắn một ngày dài ghê!

Còn ai ai tỉnh, ai mê,

Những ai thiên cổ đi về những đâu ?

 

Đời đáng chán hay không đáng chán ?

Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm.

Giá khuynh thành nhất tiếu thiên kim 

Mắt xanh trắng đổi nhầm bao khách tục.

Giang hà nhật dạ nhân giai trọc

 

Thiên địa lô trung thực hữu tình. 

Đón đưa ai gió lá chim cành, (*)

Ấy nhân thế phù sinh là thế thế.

Khách phù thế chưa dứt câu phù thế

Người phong lưu càng đượm vẻ phong lưu.

Bức khăn hồng nâng đỡ hạt châu

Chuyện kim cổ một vài câu phải trái.

Châu Nam Hải, thuyền chìm sông Thúy Ái 

Sóng Tiền Đường, cỏ áy bến Ô giang .

Ngẫm nghìn xưa: ai tài hoa, ai tất liệt,

                                                ai đài trang,

Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ.

Đời đáng chán biết thôi là đủ

Sự chán đời xin nhủ lại tri âm.

Nên chăng nghĩ lại kẻo lầm.

                                                                1922

(*)  Một cười đáng giá ngàn vàng.
(**) Sông ngày một cạn, người đời dơ đục.
      Trong lò tạo hoá, ai có tình ?

  
Xuân ơi xuân hỡi!

 

Vắng xuân lâu ta vẫn đợi chờ mong

Trải bao nhiêu ngày tháng hạ, thu, đông

Ròng rã nỗi nhớ nhung, xuân có biết?

 

Khứ tuế xuân qui, sầu cửu biệt

Kim niên xuân đáo, khách tương phùng (*)

 

Vịnh Bức Địa Đồ Rách

 

Nọ bức dư đồ thử đứng coi

Sông sông núi núi khéo bia cười!

Biết bao lúc mới công vờn vẽ

Sao đến bây giờ rách tả tơi ?

Ấy trước ông cha mua để lại

Mà sau con cháu lấy làm chơi.

Thôi thôi có trách chi đàn trẻ

Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi.

                                                 1921

 

Xuân Tứ

 

Xuân xưa Hàng Lọng cờ bay

Thoi đưa ngày tháng đã đầy mười năm.

Biết bao ra Bắc vào Nam,

Bức dư đồ rách đã cam khó lòng.

Văn chương chút nghĩa đèo bòng

Thuyền không tay lái vẫy vùng được sao ?

Ngày xuân thêm tuổi càng cao,

Non xanh nước biếc càng ngao ngán lòng!

                                                                                1936

 

Gió Thu

 Trận gió thu phong rụng lá vàng,

Lá rơi hàng xóm, lá bay sang.

Vàng bay mấy lá năm già nửa,

Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng.

 

Trận gió thu phong rụng lá hồng,

Lá bay tường bắc, lá sang đông.

Hồng bay mấy lá năm hồ hết,

Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng trông.

                                                                1925.

 

Mỵ Châu Trọng Thuỷ

 Một đôi kẻ Việt người Tần

Nửa phần ân ái nửa phần oán thương

Vuốt rùa chàng đổi móng

Lông ngỗng thiếp đưa đường

Thề nguyền phu phụ

Dạ quân vương

Duyên nọ tình kia dở dở dang

Trăm năm giọt lệ

Ngọc trai nước giếng

Nghìn thu khói nhang.

Tống Biệt

 

Lá đào rơi rắc lối thiên thai

Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi

Nửa năm tiên cảnh

Một bước trần ai

Ước cũ duyên thừa có thế thôi

Đá mòn rêu nhạt

Nước chảy huê trôi

Cái hạc bay lên vút tận trời!

Trời đất từ đây xa cách mãi

Cửa động

Đầu non

Đường lối cũ

Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi...

 

 

Thề Non Nước

Nước non nặng một lời thề

Nước đi đi mãi không về cùng non

Nhớ lời nguyện nước thề non

Nước đi ra biển non còn ngóng trông

 

Non cao những ngóng cùng trông

Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày

Xương mai một nắm hao gầy

Tóc mây một mái hãy còn tuyết sương

 

Trời tây nổi bóng tà dương

Càng phơi vẻ ngọc nét càng phôi pha

Non cao tuổi vẫn chưa già

Non thời nhớ nước, nước mà quên non

 

Dù như sông cạn đá mòn

Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa

Non xanh đã biết hay chưa

Nước đi ra bể lại mưa về nguồn

 

Nước non hội ngộ còn luôn

Bảo cho non chớ có buồn làm chi

Nước kia dù hãy còn đi

Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui

Nghìn năm giao ước kết đôi

Non non nước nước không nguôi lời thề

 

TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HIẾU

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.