Hôm nay,  

Tái Bản “Bao Nỗi Tang Thương”: Hồi Ký về Chùa Thiên Mụ, HT Đôn Hậu

30/01/202018:33:00(Xem: 4695)
blank

 

  

Nhóm Thiện Ý trong năm 2019 vừa tái bản sách “Bao Nỗi Tang Thương” – tập hồi ký của Thầy Thích Trí Lực nguyên ấn hành lần đầu vào năm 2011, và từ đó tới giờ đã được tái bản nhiều lần.

 

Sách ấn hành năm 2019 chủ yếu là để tặng, không bán. Bìa sách không đổi bố cục và các chữ trên bìa, nhưng thay đổi hình trong khung chữ nhật để cho khác các đợt phát hành các năm trước.

 

Sách dày 230 trang, là hồi ký kể chuyện đời thực. Nhưng tác giả Trí Lực là ai? Thầy là một nhà sư, học trò thân cận của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu. Tác giả Trí Lực sau năm 1975 từng bị chính quyền đày đọa, áp bức, đã trốn sang Cam Bốt năm 2002 xin nộp đơn tỵ nạn; trong khi chờ thủ tục, Thầy Trí Lực bị công an CSVN bắt cóc từ Cam Bốt, đưa về VN.

 

Nhật Báo Việt Báo trong ấn bản ngày 14/8/2003 đã loan tin rằng Hòa Thượng Thích Quảng Độ lúc đó đã chính thức yêu cầu nhà nước CS Việt Nam trả tự do cho Thượng Tọa Thích Trí Lực.

 

Thông Tấn Xã AFP cho hay một nhân vật bất đồng chính kiến nổi tiếng của Việt Nam vừa được nhà cầm quyền trả tự do sau khi bị quản chế 2 năm là Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã phản kháng chuyện chính quyền Việt Nam bắt cóc thượng tọa Thích Trí Lực tại Nma Vang và đem về giam giữ tại Việt Nam.

 

Tin nói rằng Hòa Thượng Thích Quảng Độ, nhân vật số 2 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị chính phủ cấm hoạt động, đã từ Thành phố Sài Gòn gửi một văn thư lên giới lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng Sản, đòi trả tự do ngay cho Thượng Tọa Thích Trí Lực.

 

Trong một bản tin, Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc tế, trụ sở đặt tại Paris, cho hay trong văn thư vừa kể, Hòa Thượng Thích Quảng Độ nói rằng thượng tọa Thích Trí Lực đã bị chính quyền ngược đãi hơn một thập niên nay chỉ vì là một thành viên năng động của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

 

Bản tin của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc tế nói rằng thượng tọa Thích Trí Lực, thế danh Phạm Văn Tường, bỏ trốn khỏi Việt Nam tháng Tư năm 2002 và đã được Phủ Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc dành cho qui chế tị nạn tại Phnom Penh tháng 6 trong cùng năm đó, nhưng chỉ một tháng sau, thượng tọa đã bị một số người lạ mặt bắt đi.

 

Cả chính quyền Việt Nam lẫn Kampuchia lúc đó đều nói là không biết gì về vụ này, và không ai biết thượng tọa bị bắt mang đi đâu. Thế nhưng sau hơn một năm trời, cuối tháng 7 vừa rồi, thân nhân của thượng tọa nhận được giấy của Tòa Án Nhân Dân TPSG đòi tới tham dự phiên xử thượng tọa ngày mùng 1 tháng 8. Tòa không cho biết thượng tọa bị buộc những tội gì, nhưng sau đó Tòa đã hoãn phiên xử.

 

Một nhà Ngoại Giao tây phương cho hay sự kiện này chứng tỏ tin đồn thượng tọa bị bắt cóc là đúng sự thật.

 

Và rồi nhiều năm sau, CSVN chấp nhận để Thầy Trí Lực sau khi thọ án tù sẽ sang Châu Âu định cư.

 

Bản tin VOA ngày 14/01/2010 kể rằng trong bản tin đánh đi từ Hà Nội hôm thứ Năm, hãng thông tấn Reuters cho biết Việt Nam sẽ cho phép Thượng Tọa Thích Trí Lực, một tu sĩ vừa thọ xong án tù 20 tháng về tội chống chế độ, được đi định cư ở nước khác.

 

Hãng tin Reuters trích lời phát ngôn viên bộ ngoại giao Việt Nam, ông Lê Dũng tuyên bố hôm thứ Năm rằng một đại diện của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc sẽ gặp Thượng tọa Trí Lực, thế danh Phạm Văn Tường, tại thành phố SG trong vài ngày sắp tới, và trong cuộc gặp gỡ đó, đôi bên có thể bàn về vấn đề là vị tu sĩ thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất này có muốn định cư ở nước khác hay không.

 

Theo các tổ chức tranh đấu cho nhân quyền, Thượng tọa Trí Lực đã trốn sang Kampuchia để tránh bị đàn áp, nhưng sau đó, ông đã bị bắt đưa về Việt Nam năm 2002. Ông bị truy tố về tội gọi là "cấu kết với các tổ chức ở nước ngoài để âm mưu chống lại Việt Nam".

 

Ông bị tuyên án 20 tháng tù hồi tháng 3 năm 2010 trong một phiên tòa xử kín. Ông được thả hồi cuối tháng trước vì đã thọ gần xong án tù trong thời gian bị tạm giam.

 

Duyên khởi để ấn hành tập hồi ký “Bao Nỗi Tang Thương” của tác giả Trí Lực là từ một nhóm hoạt động nhân quyền tại Châu Âu.

 

Nhà báo Nguyễn Văn Trần trong “Lời giới thiệu” trên sách “Bao Nỗi Tang Thương” kể về bước đầu nghe tin và tìm gặp Thầy Trí Lực:

 

“Khi được tin ông Trí Lực đi qua Thụy Điển tị nạn chánh trị, người bạn của tôi ở Sài Gòn ân cần nhắn tin nhờ tôi lúc nào có cơ hội tìm hỏi thăm sức khỏe và đời sống mới của ông Trí Lực. Anh chỉ biết ông Trí Lực đi tị nạn ở Thụy Điển vì trước khi đi, ông Trí Lực ghé qua thăm anh bạn của tôi lần cuối, căn dặn sẽ không liên lạc nhau để tránh cho người ở lại những phiền phức vô ích…” (Bao Nỗi Tang Thương, trang 7)

 

Xuyên suốt tập hồi ký “Bao Nỗi Tang Thương” là hình ảnh các nhà sư độc lập, không quỵ lụy trước cường quyền CSVN.

 

Lời Giới Thiệu của nhà báo Nguyễn Văn Trần nói tóm lược về nội dung sách:

 

“Và về mặt xã hội, có điều may mắn là chưa có ai thấy thầy chùa đi làm cộng sản, mà chỉ có cộng sản lãnh nhiệm vụ đi làm thầy chùa để phá đạo, hủy diệt lòng tin tôn giáo để phục vụ cộng sản.

 

Mời bạn đọc mở sách ra để lần bước theo dõi, chia sẻ với tác giả Trí Lực những nỗi tang thương của chính tác giả và đồng thời của ân sư của ông.” (Bao Nỗi Tang Thương, trang 16)

 

Nhưng, ân sư của tác giả Trí Lực là ai?

 

Câu trả lời rằng, ân sư của Trí Lực là Hòa Thượng Thích Đôn Hậu.

 

Nhà báo Nguyễn Văn Trần nói sơ lược, trích:

   

“Qua tập hồi ký, tác giả ghi lại những kỷ niệm của thời gian dài ông sống bên cạnh Huề thượng Đôn Hậu tại chùa Linh Mụ, với lòng thương nhớ không nguôi từ lúc Huề thượng bị Việt cộng Hà Nội tổ chức bắt cóc dẫn đi ra Hà Nội. Ông quả quyết Huề thượng Đôn Hậu trước sau vẫn là kẻ chơn tu, đạo hạnh viên mãn. Theo ông, Huề thượng Đôn Hậu sở dĩ đã phải đi theo Việt cộng Hà Nội vì không thể làm gì khác hơn được trong hoàn cảnh bản thân bị khống chế, trong lúc đó nhiều đệ tử và phần lớn Phật tử của ngài đang nằm trong vòng kiểm soát của giặc . Hơn nữa, kẻ tu hành không thể không chấp nhận nghiệp quả của thân tứ đại đang mang.

 

 Sau 30-04-1975, được trở về chùa Linh Mụ, Huề thượng đã nhiều lần cự tuyệt những đề nghị một số việc làm của nhà cầm quyền Hà Nội nhằm phục vụ chánh quyền. Trước khi viên tịch, Huề thượng căn dặn tổ chức tang lễ của ngài trong vòng nghi lễ tôn giáo đơn giản, từ chối nghi lễ của nhà cầm quyền có tính cách tuyên truyền chánh trị.  Và các vị đệ tử của ngài đã vâng lời thực hiện nghiêm chỉnh di chúc. Từ chối ông Nguyễn Hữu Thọ làm trưởng ban tang lễ và đọc điếu văn, từ chối huy chương của Hà Nội...

 

 Về tác giả, bản thân là kẻ tu hành, tác giả cũng đã nhiều lần vào tù ra khám, bị công an làm thầy chùa trù dập, không có chùa nương tựa, không có hộ khẩu của một người dân bình thường của xã hội xã hội chủ nghĩa. Bị lâm vào thế cùng đường, ông Trí Lực trốn được qua Miên, bị công an mật vụ Hà Nội ở Nam Vang rình bắt cóc sau khi ông được qui chế tị nạn của Liên Hiệp Quốc. Ông bị công an đẩy lên xe bịt bùng chở thẳng về Tây Ninh, đưa ra tòa án nhân dân xét xử về tội “Trốn ra nước ngoài nhằm mục đích chống lại chánh quyền nhân dân”.

 

Nhờ hải ngoại tố cáo Hà Nội vi phạm Công ước Quốc tế, và mặt khác, Hà Nội sợ ông khai trước tòa có báo chí và công chúng theo dõi mà biết những điều đình mờ ám của chánh quyền với ông, như chánh quyền đề nghị ông phủ nhận những lời của ông khai trong hồ sơ tị nạn, ông nên ở lại Việt Nam, … chánh quyền sẽ cấp cho ông một ngôi chùa lớn, khang trang, với đầy đủ bổng lộc và quyền uy . Ông từ chối tất cả. Thế là ông chọn ở tù . Ông chỉ bị xử 20 tháng tù ở. Ra tù, ông được Thụy Điển nhận làm người tị nạn cộng sản theo hồ sơ đã thiết lập ở Nam Vang tháng 6 năm 2002.

 

 Bao nỗi tang thương không riêng gì là những tháng năm đầy gian truân, khốn khổ của Huề thượng Đôn Hậu, mà cũng là thực tế cuộc sống của ông Trí Lực từ sau 30-04-1975 nữa. Phải chăng hai kẻ tu hành cùng mang chung một nghiệp chướng thế gian?” (Bao Nỗi Tang Thương, trang 8-10)

 

Tác giả Trí Lực tự giải thích về tập hồi ký:

 

“Bao nỗi tang thương là tập hồi ký ghi lại trung thực những sự biến tại ngôi chùa Thiên Mụ cố đô Huế, là nơi tôi xuất gia tu học từ thuở nhỏ, cho đến khoảng thời gian phục hoạt Giáo hội, sau tang lễ bổn sư chúng tôi là trưởng lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu viên tịch năm 1992.”  (Bao Nỗi Tang Thương, trang 19)

 

Độc giả muốn liên lạc, có thể email về: [email protected] .

 
Và bây giờ, người viết tập hồi ký "Bao Nỗi Tang Thương" đã trở thành một cư sĩ đời thường: tác giả "đã bạch lên chư Tăng làm lễ xả giới đàng hoàng, sống cuộc đời của một người cư sĩ Phật tử. Chỉ xin giữ lại hai chữ Pháp tự - Cư sĩ Trí Lực (không có mang họ Thích), pháp danh Tâm Nguyện để trọn đời ghi nhớ ân đức cao dày của Bổn sư." 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong trang đầu tiên của Thuyền, tiểu thuyết, tác giả Nguyễn Đức Tùng viết:“Cả Sài Gòn, cả nước, xem bói. Thời trước, người ta xem để hỏi ngày lành tháng tốt, tiền tài, hạnh phúc lứa đôi, nhưng năm ấy, mọi người hỏi: có đi được không?” Đi hay ở, đó là vấn đề. Chả là vào thời đó, “Nếu cái cột đèn biết đi thì cũng phải đi.” Nhận xét đơn giản này, không rõ do ai thốt lên, đã lập tức trở thành phát ngôn thời danh, mô tả khá hình tượng cho một chương bi thảm trong lịch sử dân tộc, nối tiếp ngay sau một chương bi thảm khác là chiến tranh. Chương đó bắt đầu từ trong bối cảnh “Ngày tôi ngoài hai mươi tuổi, đó là những năm tháng u ám nhất của đời người, đó là những ngày yêu đương tràn ngập, mặt trời lên mỗi sáng, chiếu rọi mặt đất. Nhìn đâu cũng thấy tương lai. Đó là những ngày buồn bã, đói, thất vọng. Chúng tôi có tất cả, chúng tôi không có gì. Đó là những ngày kỳ lạ khi chiến tranh chấm dứt mà không chấm dứt, hòa bình lo âu.”
New Book Release: This book is a translation of a collection of personal, literary, and journalistic vignettes of Vietnamese individuals who have made notable contributions to literature, art, and science. It is a rich source of information on the social, cultural, and political history of South Vietnam, as well as the individual careers of its human subjects...
Làm thơ là một hành trình, với nhiều người, có khi rất là tình cờ bất chợt như làn gió mát buổi sớm chúng ta gặp mà không hề mong đợi. Thơ của chị Lê Phương Châu có phong cách như thế, khi thơ đọc như là những dòng chữ tình cờ, nơi đây chị có vẻ như không cố ý tìm chữ, tất cả chỉ là tự nhiên như ca dao. Trên từng dòng chữ, chị hiện ra như các hơi thở của tỉnh thức, để tự quán sát đời mình tan rã từng ngày, từng giờ, từng khoảnh khắc trong dòng sông vô thường. Và từ đó, thơ của chị khởi dậy trên các trang giấy.
Trong những năm gần đây, các thư viện công tại Hoa Kỳ – vốn từng là không gian yên tĩnh dành cho học tập và tra cứu – đã trở thành điểm nóng trong các cuộc tranh chấp văn hóa. Hàng ngàn cuốn sách bị yêu cầu cấm lưu hành, không phải bởi độc giả trực tiếp, mà từ các nhóm chính trị cánh hữu sử dụng mạng xã hội để vận động phản đối hàng loạt. Riêng năm học 2023–2024, PEN America ghi nhận tới 10.046 lượt cấm sách ở các trường công, ảnh hưởng tới 4.231 tựa sách và 2.662 tác giả; trong đó Florida và Iowa chiếm lần lượt 4.561 và 3.671 lượt cấm trong năm học. Gần một nửa trong số đó là sách viết bởi các tác giả LGBTQIA+ hoặc thuộc các cộng đồng chủng tộc thiểu số – những tiếng nói vốn đã bị thiệt thòi trong ngành xuất bản, nay tiếp tục bị đẩy ra ngoài bằng nhãn “không phù hợp.”
Cũng tâm thái ấy, tôi có được khi đọc Phòng Triển Lãm Mùa Đông của nhà văn Đặng Thơ Thơ, và sau đó là xoay sở cho lọt vào những con chữ mang đầy ý nghĩa bức phá hiện thực...
Nguyễn Hữu Liêm là một người đa dạng, không chỉ trong nghề nghiệp mưu sinh, mà cả trong những lĩnh vực cầm bút, lý luận. Ông là một người gây tranh cãi trong những nhận định về cộng đồng, và cả trong những bài viết về rất nhiều đề tài, như văn hoa, triết học, tôn giáo, chính trị. Dĩ nhiên, sôi nổi nhất là lĩnh vực chính trị. Nguyễn Hữu Liêm mưu sinh với nghề Luật sư, giảng dạy Triết. Những bài viết của ông bất kể gây tranh luận thế nào trong cộng đồng, vẫn là những đề tài cần được cộng đồng suy nghĩ nghiêm túc. Do vậy, từ một bàn viết lặng lẽ ở San Jose, Nguyễn Hữu Liêm trở thành người khơi dậy những cuộc tranh luận không chỉ ở hải ngoại, mà còn cả trong Việt Nam.
Đặng Thơ Thơ cùng thế hệ với ông bác, em ruột mẹ tôi, sống trong thời Việt Nam Cộng hòa và cũng như ông bác tôi, Thơ Thơ xa xứ cùng gia đình, người bác theo ngành y còn chị ngành giáo dục, viết văn, sáng lập trang Da Màu như cách để giữ gìn bản sắc và ngôn ngữ Việt. Xa quê mới nhớ nhà, rời nhau mới ngẩn ngơ căn nhà cắt rốn, sợ mất tiếng mất giọng, ngôn ngữ bay tro nên việc người Việt tha hương lập ra các trang Văn Hải Ngoại là cách đại đoàn kết khỏi cảnh nhớ nhà, đồng thời đấy cũng là sân chơi, thư viện lưu trữ bản thảo, để người trẻ muốn tìm tòi giai đoạn 20 năm miền Nam, muốn thử sức mà không cần phải trình bày thành tích đăng báo, in sách chung sách riêng đều có thể liên lạc.
Không ai ngờ nhà thơ này làm được các bài thơ kể chuyện về các Thiền sư Việt Nam trong thể thơ Đường luật, y hệt như khai mở lại một mạch nguồn thi ca sinh động. Những bài thơ của thầy, tinh luyện từng chữ, dịu dàng mang hơi thở Thiền Tông Việt Nam. Tôi đọc và kinh ngạc, như gặp lại một tri kỷ những năm rất xưa cũ, nhưng với một chân trời thi ca hoàn toàn mới. Nơi đó, riêng một mình Thầy Thích Chúc Hiền bước đi đơn độc, trong văn phong thanh thản, giữa những như dường gian nan trong từng chữ, từng ý đối, từng vần trau chuốt khó gieo, và trong từng âm vang Thiền ngữ. Tôi đọc và cảm nhận từng trang thơ đầy những tràn ngập hạnh phúc, hẳn nhiên là cho cả thi sĩ Thích Chúc Hiền và cho cả những độc giả khó tính như tôi. Từ thầy, tôi nhận ra rằng thơ Đường luật không hề cũ, chỉ là vì mình đã tránh né một lối đi rất khó khăn của thi ca.
THUYỀN là cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Tác phẩm thuật lại chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người khi phong trào vượt biên trong nước lên cao, vào khoảng giữa hai thập niên 70s và 80s. Vì là tiểu thuyết nên cuốn sách thoát xác ra khỏi dạng hồi ký (mặc dù tự sự của nó bám sát sự thật và những điều có thể xem như sự thật) và nhất là nhờ được viết với bút pháp “dòng ý thức” nên nó đồng thời bật mở những suy nghiệm về lịch sử, chiến tranh, quê hương, tình yêu, sự sống, sự chết, sự tàn bạo, lòng nhân đạo, ký ức, lòng khao khát được sống, dòng chảy thời gian, cái nhẹ của nhân sinh, và nhiều thứ khác...
Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.