Hôm nay,  

St. Valentine’s Day, đọc lại một lá thư của John Steinbeck

2/14/202009:50:00(View: 4847)

John Steinbeck and wife
John Steinbeck và vợ, 10 tháng 12, 1962


Văn hào John Steinbeck (1902-1968) là một nhà văn lớn của Mỹ quốc, tác giả nhiều cuốn tiểu thuyết kinh điển như Phía đông vườn địa đàng, Vườn nho nổi giận, Của chuột và người, v.v… Ông cũng là tác giả nhiều lá thư đặc sắc ông viết cho gia đình, bằng hữu, biên tập viên nhà xuất bản, và những nhân vật tăm tiếng trong cũng như ngoài văn giới, tổng cộng khoảng trên dưới 850 lá, được gom lại in trong bộ sách Steinbeck: A Life in Letters.


Nhân ngày Valentine, xin trích dịch dưới đây một lá thư ông viết cho cậu con trai tên Thom. Cậu Thom đang học nội trú biên thư về cho bố mẹ, thú nhận rằng cậu đang yêu say đắm một cô nữ sinh tên Susan học cùng trường. Nhận được thư, Steinbeck hồi âm ngay cho con trai với lời lẽ hết sức cảm động, đầy yêu thương thân ái, và rất minh đạt, khôn ngoan. Lá thư không có thời gian tính, cũng như tình yêu thật sự không bao giờ nhạt phai theo năm tháng… Tất cả những ai đã từng yêu, đang yêu hay sắp yêu, nên ghi khắc thật sâu vào tâm khảm lời lẽ trong lá thư của nhà văn.


New York, 10 tháng 11, 1958


Thom thân mến:


Bố mẹ mới nhận thư con sáng nay. Bố sẽ trả lời con từ cái nhìn của bố và dĩ nhiên mẹ sẽ cho con biết mẹ nghĩ gì.


Trước hết – con đang yêu – điều đó tốt thôi – yêu là cái gì tốt đẹp nhất xảy ra cho bất kỳ ai. Đừng để kẻ khác biến nó thành cái gì nhỏ bé, tầm thường.


Thứ hai, tình yêu cũng có nhiều loại. Có loại tình yêu ích kỷ, ác tâm, ái ngã, chỉ muốn sở hữu, sử dụng tình yêu để quan trọng hóa cái tôi của mình. Đấy là loại tình yêu xấu xí, chỉ khiến gây què quặt cho tha nhân. Loại tình yêu khác là tình yêu mà mình dốc ra tất cả những điều tốt lành trong lòng mình – sự tử tế, lòng quan tâm và tôn trọng người kia – không hẳn chỉ là sự tôn trọng có tính cách xã hội, mà là sự tôn trọng ở tầm mức to rộng hơn, tức là biết nhận ra người kia là duy nhất, biết phẩm cách của người kia là gì. Loại tình yêu thứ nhất chỉ khiến con trở nên bệnh hoạn, nhỏ bé và yếu hèn, nhưng loại tình yêu thứ hai có thể tiếp sức cho con trở nên mạnh mẽ, và lòng can đảm cùng những điều tốt lành khác, thậm chí sự minh đạt, những thứ con không bao giờ ngờ mình sở hữu, cũng sẽ hiện ra nơi con người con.


Con bảo đây không phải là tình yêu trẻ con. Nếu con cảm thấy nó sâu đậm như thế thì dĩ nhiên nó chẳng phải là tình yêu trẻ con rồi. Nhưng bố không thấy con nói gì về cảm xúc trong lòng con. Lòng con, con biết rõ hơn ai hết. Con phải làm gì, có lẽ đó mới chính là cái con muốn nhờ bố cho ý kiến giúp con – và bố có thể bảo con rằng, con hãy xem đó là một vinh dự, con hãy vui sướng, vui mừng vì có tình yêu. Chẳng có gì đẹp đẽ và tuyệt vời hơn tình yêu. Con hãy cố hết sức sống sao cho xứng đáng với nó.


Nếu con yêu người nào – bố có thể nói thế mà không sợ gây thiệt hại cho ai – thì con hãy ghi nhớ rằng có người có tính hay e thẹn, và đôi khi lời nói phải bù đắp tính hay e thẹn đó. Con gái có cách nhận biết hoặc cảm thấy cảm xúc của con, nhưng thông thường con gái cũng thích nghe con biểu lộ bằng lời nói. Và rất có thể đôi khi, vì lý này hay lý do nọ, cảm xúc con biểu lộ không được đáp trả – nhưng không có nghĩa là cảm xúc của con không tốt hay không giá trị.


Sau cùng, bố nhận biết cảm xúc của con bởi vì chính bố cũng có cảm xúc đó, và bố vui mừng vì con giống bố.


Bố mẹ sẽ rất vui nếu con đưa Susan về nhà chơi, bố mẹ sẽ vui vẻ tiếp đón. Mẹ con sẽ thu xếp mọi chuyện vì đó là sở trường của mẹ con và bố tin chắc mẹ con cũng sẽ vui như bố. Mẹ con cũng biết đôi điều về tình yêu và chắc sẽ giúp con còn nhiều hơn bố.


Đừng lo lắng con sẽ đánh mất nó. Cái gì đúng, sẽ xảy ra – Điều thiết yếu hàng đầu là đừng hấp tấp. Cái gì tốt lành nếu biết gìn giữ, sẽ không vuột ra khỏi tay mình biến mất đâu.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.