Hôm nay,  

Thầy Vẫn Thiền Mọi Đêm

28/02/202016:19:00(Xem: 3555)

Tiếng chuông bong bong ngân dài theo con nước chảy của dòng Hà Thanh, laị vang lên xuyên qua tán lá xanh um của những tàng nhãn, xoài, vú sữa cổ thụ. Chùa Châu Liên nằm nép mình dưới những tàng cây quanh vườn. Mỗi chiều tiếng chuông laị lay động không gian trước khi mặt trời dần xuống thấp. Dân các tổng An, Phước, Lộc, Thọ… cũng như muôn loài chim đã quen với tiếng chuông, mỗi khi chùa chuông vang lên thì người thu xếp việc đồng áng, chim bay về quanh vườn ríu rít trên cây. 

 Chẳng biết chùa dựng lên tự bao giờ, tuy nhỏ nhưng dáng vẻ cổ kính rất đẹp, hài hoà với cảnh vật ở đây. Có những mùa lụt lớn dâng lên, những cơn bão dữ thổi qua nhưng cũng chẳng làm hư hao gì mấy. Hồi còn chiến tranh, năm ấy hai bên đánh nhau dữ dội, máy bay Mỹ thả bom xuống căn cứ, những quả bom to và dài như trái bí đao, đặc biệt có một quả to bằng cái lu nước. Những quả bom ấy làm sập cầu Quán Cát, mộ tổ họ Nguyễn cách xa ba cây số, to như ngọn đồi, xây bằng đá ong, ô dước bị chấn động nứt toác ra và sụp đổ một phần, vậy mà chùa Châu Liên gần bên chẳng hề hấn gì. Dân quanh vùng xì xào bàn tán nhiều lắm, ai cũng cho là chùa linh, có long thần, thổ địa hộ vệ nên không bị sập.

 Chùa nằm trên đồi Gò Đu, trước mặt là cánh đồng lúa xanh bát ngát, những cánh cò trắng chao lượn đẹp làm sao. Sau khi chiến tranh kết thúc, người laị phát động đập phá chùa chiền, dinh, miễu, đình…Miễu kê, đình Ngọc Thạnh, đình Luật Lễ, Đình Vân Hội… đều tan tành, đồ tế khí bị lấy đi sạch trơn. Ấy vậy mà chùa Châu Liên một lần nữa thoát nạn, không một mảy may bị haị, duy có lá cờ Phật giáo thường treo giữa sân chùa là phải hạ xuống mà thôi. Nhiều năm về sau laị có một phong trào khác, cơn lốc chùa to Phật lớn càn quét từ thánh thị tới thôn quê, từ miền xuôi lên miền ngược…những ngôi chùa cổ dù còn tốt vẫn bị triệt hạ để xây mới, những pho tượng cổ thì quét sơn loè loẹt. Nhiều người lên chùa xúi thầy xây laị chùa cho hợp với thời đaị mới. Một ngaỳ kia sau khi khoá lễ xong, đaị gia Thạch ghé chùa:

 - Thưa thầy, con xin cúng dường mười tỷ để thầy xây laị ngôi chùa cho to lớn, khang trang hơn. 

 Những Phật tử ở đấy nghe thế thì mừng ra mặt, bà Bảy Hưng cười:

 - Qúy hoá quá, đaị gia Thạch có tấm lòng Bồ tát. 

 Ông Hai Quá cũng khen

 - Đaị gia Thạch có tâm tu, còn trẻ mà hiến mười tỷ để xây chùa là hiếm lắm! 

 Bà con Phật tử quanh vùng ai cũng xuýt xoa ca ngơị đaị gia Thạch không tiếc lời. Thầy trầm ngâm một lát rồi nhỏ nhẹ:

 - Thầy cảm niệm tấm lòng của anh nhưng thầy không dám nhận số tiền này, mong anh thông cảm! 

 Đaị gia Thạch hỏi:

 - Tại sao?

 Thầy bảo:

 - Bây giờ thầy chưa thể nói được, nhưng từ từ rồi anh sẽ biết thôi. 

 Đaị gia Thạch ra về với vẻ bất mãn, bà con thì cũng tiếng bấc tiếng chì, nhiều người tiếc nuối món tiền lớn:

 - Ông thầy già cả nên an phận thủ thường, không chịu khuếch trương phát triển như các chùa khác. 

 Thượng tọa Qúy Tài từ chùa Thọ Lộc đến chơi hỏi:

 - Nghe nói có đaị gia hiến mười tỷ xây chùa mà huynh không nhận? 

 Thầy khẳng định:

 - Ừ, ông ấy hiến tiền nhưng tôi không nhận.

  - Tại sao?

 - Mình xuất gia tu học là để ngộ đạo và giải thoát, chùa to Phật lớn chỉ là cái mã bề ngoài, không dính dáng gì đến con đường giải thoát cả! mặc khác nó còn là sự dính mắc đấy, vả laị chùa này còn rất tốt, tuy chưa phải là danh lam cổ tự nhưng cũng là chứng tích trăm năm của vùng đất này. Tôi không nỡ đập đi để xây mới, 

 Thượng tọa Qúy Tài laị nói:

 - Thời thế hôm nay khác, phải chùa to Phật lớn mới độ chúng được.

 - Không, thượng tọa nhầm rồi! chùa to Phật lớn là để du lịch, người ta đến chụp hình đăng mạng xã hội, để tô vẽ mặt mày đấy thôi! Có mấy ai đến để mà ngồi xuống tịnh tâm đâu? càng to, càng hào nhoáng thì càng lăng xăng rộn ràng. Ngày xưa Phật bỏ cả cung vàng điện ngọc, hà cớ gì giờ laị cố xây cho đồ sộ, sơn phết vàng son rồi ngụy ngôn bảo là vì Phật pháp.

 Thượng toạ vẫn cố biện giải:

 - Người ta hiến mười tỷ, huynh không nhận, hoá ra làm thối thất tâm bồ đề của họ. 

 - Này huynh đệ, hãy nhìn nhận cho rõ ràng một tí! nếu là tịnh tài thì tôi đâu nỡ từ chối. Thượng tọa cũng biết đấy, đaị gia Thạch giàu  kinh khủng, là tay có máu mặt của địa phương, kết thân toàn tai to mặt lớn. Y khai thác đá xuất khẩu, những ngọn núi quanh vùng như: Hòn Vồ, Hòn Thơm, Hòn Bé, Hòn Chài… bị phá tan hoang, thảm thực vật bị hủy diệt, thú hoang tuyệt chủng, những sườn núi lở loét, mỗi khi mưa xuống nước cuốn đất đỏ chảy thành dòng như dòng máu từ thân núi chảy ra, những dòng nước đấy đất, sỏi, đá lấp cạn ruộng vườn, đường xá. Những xe tải hạng nặng chở đá cày nát hết đường xá hương thôn, môi trường ô nhiễm kinh khủng… dân kêu trời như bộng, khiếu kiện không ăn thua gì,  quan quyền ngậm miệng ăn tiền nên không ai dám đụng đến y. Những đồng tiền từ máu của núi rừng ấy, từ nỗi thống khổ của dân lành… Làm sao ta có thể nhận những đồng tiền ấy để xây chùa? vả laị tôi cũng quán xét mà biết, việc này không phải phát xuất từ tâm thành của anh ta, chẳng qua là lòng anh ta có nỗi bất an, lo sợ qủy thần trách phạt nên mới làm vậy hòng kiếm phước hoặc sự che chở. 

 Thượng tọa Qúy Tài vẫn không chịu, vớt vát thêm:

 - Dù sao anh ta cũng làm một việc tốt, xây chùa to sẽ ảnh hưởng tích cực đến xã hội. 

  Thượng tọa cáo lui nhưng lòng không vui, về đến chùa còn nói với các huynh đệ khác:

 - Tôi quyên giáo muốn gãy lưỡi mà chỉ được một tỷ bạc, thầy Châu Liên khơi khơi có người hiến mười tỷ mà không chịu nhận. Ông ấy già nua, gàn dở và không thức thời. 

 Các vị tăng bàn tán kẻ bảo uổng, người nói bỏ lỡ cơ hội quý… Riêng có một ông tăng còn rất trẻ, không nói một lời nào, vẻ mặt thoáng một nét cười nhẹ mà bỏ đi. Chuyện đến tai giáo hội, các vị chức sắc cử thầy Đắc Danh về thuyết phục:

 - Thầy nên vì giáo hội mà nhận khoản tiền ấy để xây chùa, xây chùa to có lợi cho bá tánh mà giáo hội ta cũng thơm lây, Phật giáo nước nhà vẻ vang, xã hội an định…

 Thầy Châu Liên cười:

 - Chùa Châu Liên này còn vững chãi lắm, hà cớ gì phải xây laị? 

 - Xây chùa to là để tạo khí thế cho quần chúng tu học, tăng ni phấn khởi, xây chùa dựng tháp để tiền đồ Phật giáo vững mạnh và phát triển.

 - Thầy nhầm rồi! tiền đồ Phật giáo hưng thịnh hay không, không phải ở nơi chùa to Phật lớn mà là do có tinh tấn tu học, giới luật tinh nghiêm hay không mà thôi! Thầy có biết không? đời Trần, Phật giáo nước ta cực kỳ hưng thịnh, tăng lữ gắn kết chặt chẽ với qúy tộc triều đình, cúng dường tiền bạc đất đai quá nhiều, tiêu biểu như chùa Quỳnh lâm, có đến ngàn mẫu ruộng. Khi triều Trần sụp đổ, Phật giáo nước mình cũng suy vi suốt mấy trăm năm sau. Đấy là thời mà có nhiều bậc long tượng trụ thế, nhiều tòng lâm thạch trụ xuất sắc, nhiều hành giả kiệt xuất mà còn thế huống chi là đời bây giờ. 

 Thầy Đắc Danh vẫn không chịu:

 - Phật giáo các nước có Angko vat, Angko Thom, Borobudu, Thiếu Lâm Tự… thì ta cũng phải có cái gì tương tự để mà hãnh diện chứ. 

 Thầy Châu Liên lắc đầu:

 - Người học Phật tối kỵ việc so sánh, đua đòi, dính mắc danh sắc. Quốc độ mỗi nơi mỗi khác, vả laị đời vô thường, các pháp hữu vi sanh diệt liên miên, thành trụ hoại không không có hạn kỳ. Thầy là người xuất gia, lẽ nào quên hay sao? 

 Không thuyết phục được thầy Châu Liên, thầy Đắc Danh quày quả bỏ về, chuyện tưởng thế thì thôi, nào ngờ chức sắc từ quận xuống:

 - Tại sao có người hiến tiền xây chùa mà thầy từ chối? xây chùa to cho đẹp địa phương ta, thu hút khách du lịch, chùa cũng có lợi mà địa phương cũng có thêm thu nhập. Chúng tôi sẽ hỗ trợ thầy! 

 Thầy từ tốn:

 - Các anh thấy đấy, chùa Châu Liên gắn bó với địa phương cũng non trăm năm rồi, đem laị bình an cho dân các tổng trong bao nhiêu năm, dù thiên tai, dù chiến tranh…Chùa cũng là dấu ấn mở đất, lập cõi của cha ông, là nơi người sống nương tựa tinh thần, người chết gởi nắm tro tàn để nghe kinh, hưởng hương hoa. Người xuất gia hay taị gia cũng đều biết câu “ An cư lập nghiệp”. Chùa Châu Liên vốn đang an, đang tốt, khi không đập bỏ để xây laị thì tổn haị đến tài lực dân, động đến long thần thổ địa và bao nhiêu chúng sanh khác. 

 Người của quận vẫn khăng khăng:

 - Các địa phương khác đều có chùa to phật lớn cả, lẽ nào địa phương ta chịu thua? 

 Thầy Châu Liên khuyên:

 - Đừng làm con gà mà tức nhau tiếng gáy, quan trọng là đất thạnh dân an, xã hội thái hoà! 

 O ép năm lần bảy lượt không xong, họ bỏ về với vẻ mặt cáu kỉnh dọa:

 - Để xem ông ấy cúng cựa được bao lâu! 

 Tối hôm ấy thầy ngồi thiền, bất chợt nghe thoảng mùi tanh, hé mắt nhìn thì thấy một cặp Ma Hầu La Già dập đầu qùy sau lưng:

 - Tạ ơn hoà thượng, nhờ bản lãnh của thầy mà chùa này không bị triệt hạ. Chúng con nhờ thế mà không bị mất nơi nương tựa. Chúng con ở đây đã gần trăm năm, ngày đêm nghe kinh kệ, hưởng khói nhang… Ơn này khắc sâu tim óc không bao giờ quên. 

 Thầy vẫn ngồi yên bất động, nghe rõ mồm một nhưng giữ vững chánh niệm, lát sau thì có một người phục sức như võ tướng, tay cầm kim cang xử bước vào và sụp lạy:

 - Tạ ơn thầy, nhờ thầy mà chùa Châu Liên không bị phá bỏ, các chùa khác đều bị đập đi xây mới. Hộ pháp chúng con dù hết lòng yêu mến những ngôi cổ tự nhưng không làm gì được hơn trong thời pháp nhược ma cường này! Châu Liên có thể nói là một hiện tượng lạ, vẫn tồn tại vững chãi, dù trải qua lũ lụt, giông tố, chiến tranh và cơn lốc đập cũ xây mới, đất lành cũng nhờ người đức lớn. Con nguyện đời đời hộ pháp, hộ tăng, hộ tất cả những ai có lòng với đạo pháp. 

 Thầy vẫn ngồi yên lặng, trông vững chải như sơn, mùi hương trầm phảng phất, ngọn đèn bạch lạp leo lét lung linh. Tượng Thế Tôn trên toà như thoáng mỉm cười, nụ cười nhẹ như gió thoảng mây bay, nụ cười không phải ai cũng nhìn thấy, nụ cười như hư không mà laị mênh mông và hùng tráng. Trời, người trông thấy đều sanh lòng cung kính năm vóc gieo sát đất. Khung cảnh điện đường như đang ở cung trời cổ độ nào chứ chẳng phải của quốc độ này. Thổ địa bước vào lạy Phật xong qùy thưa:

 - Bạch thầy, con là thổ địa coi sóc cuộc đất này. Chùa Châu Liên ở đây cũng non trăm năm, thế đất tốt, cư dân hiền hoà, từ khi thầy về trụ thì càng ngày càng hưng vượng hơn. Đạo hạnh thầy cảm hoá được nhân gian và bao loại phi nhơn. Những loại phi nhơn về đây nương tựa tam bảo, nghe kinh, thính pháp ngày càng nhiều. Bọn họ đều phát nguyện hộ pháp, hộ tự, hộ nhân… Cũng có những kẻ có tâm sân hận, ích kỷ, quấy phá nhiễu chúng nhưng con đều khắc chế nhiếp phục. Chúng con tạ ơn Phật, ơn thầy! 

 Bên ngoài Phật điện lúc ấy có vô số hoa trắng từ trời rơi xuống như mưa. Các vị thiên xuất hiện đầy sân chùa đồng thanh xưng tán cúng dường

 Thế Tôn, Thế Tôn

 Đấng đạo sư của muôn đời

 Ánh sáng trí huệ soi sáng ba ngàn thế giới

 Lòng từ ban rải khắp mười phương

 Chúng con trời, người

 Quy y đảnh lễ

 Hôm nay rải hoa cúng dường

 Bậc khí phách kim cương 

 Thời mạt pháp

 Thầy vững chải giữ gìn chánh pháp 

 Hôm sau, phiên chính chợ Bà Bâu, dân các tổng cứ đồn đaị chuyện chùa Châu Liên không ngớt. Sau phiên chợ, có người lên chùa hỏi thầy:

 - Đêm qua chùa có lễ gì mà dân các tổng không ai hay biết? người các tổng thấy cả ngôi chùa và khu vườn sáng lung linh như hôị hoa đăng, sáng nay ngoài chợ người ta bàn tán râm ran.

 Thầy cười:

 - Có lễ gì đâu, thầy vẫn thiền như mọi đêm thôi! 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 1/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.