Hôm nay,  

DÒNG ĐỜI

3/8/202010:06:00(View: 5439)


 Ông Dawson giơ tay ngoắc gọi:

 - Tim, mày làm ơn đi kiểm tra laị các mối giằng buộc và hệ thống máy hơi! Tao muốn tất cả phải bảo đảm tuyệt đối, không phải tao không tin mày, nhưng công việc là công việc!

 Tim trả lời:

 - Ok, tao đi kiểm tra đây, mặc dù tao đã biết là tất cả đã an toàn!

 Tim thông cảm với Dawson, nó làm quản lý vô cùng bận rộn, mọi việc đổ lên đầu nó, trên thì chủ la rầy, dưới thì nhân viên cứng đầu. Nó phải làm sao cho vừa lòng chủ mà cũng không phải căng thẳng với nhân viên. Mọi việc phải chính xác, nếu có sai sót gì thì nó là người đầu tiên chịu trách nhiệm. Công việc nó thật khó chứ chẳng phải chơi, ở cái xứ này việc an toàn là trên hết, phải lăn ra làm và chịu trách nhiệm việc mình làm, không có chuyện:”Tao tin ở mày!”. Nhớ năm kia có thằng bé chơi đu quay bị té, lỗi một phần ở thằng bé không chịu nghe theo chỉ dẫn. Ấy vậy mà ba mẹ nó đi thưa, bọn luật sư và bác sĩ làm hồ sơ gian để ăn tiền bảo hiểm, sau khi bồi thường xong đoàn xiếc tưởng chừng sạt nghiệp luôn. Ông chủ thương lượng với nhân viên:

 - Đoàn xiếc chúng ta cạn tiền vì vụ kiện, giờ mọi người thắt lưng buộc bụng, giảm lương và các khoản phúc lợi, bằng không thì đoàn xiếc chúng ta khai phá sản.”

 Đa số mọi người chấp nhận vậy để đoàn xiếc còn họat động, tuy có thằng Jackson D thì không bằng lòng:

 - Shit! lời ăn lỗ chịu, sao bắt tôi phải gánh? Hôm nay ngày cuối của tôi!

 Thế là nó ra đi, con Annie A- bồ thằng Jackson D ca cẩm:

  - Lương đã thấp còn giảm nữa sao sống nổi?

 Nó rời đoàn đi theo thằng bồ luôn. Hai đứa đi rồi, việc của nó những người còn laị phải làm bù trước khi tuyển người mới. Nhiều người bực bội vì vừa giảm lương mà laị thêm việc, tuy vậy vẫn phải cố đu theo đoàn vì chưa biết đi đâu. 

 Tim theo đoàn này đã mười lăm năm, cuộc sống rày đây mai đó, lang thang khắp góc bể chân trời, khi thì từ bờ Đông sang bờ Tây, khi thì từ miền Nam ngược lên miền Bắc, lúc thì về miền Trung Tây. Đoàn xiếc rong ruổi từ thành đô, thị trấn cho chí miền thôn quê heo hút, nơi thì năm ba tuần, nơi thì một hai tháng; đi tới đâu mang tiếng cười sảng khoái cho con nít ở đấy. Dân địa phương cũng thích thú với những màn xiếc tạp kỹ, các trò chơi rộn ràng, các gian hàng ăn uống, quà lưu niệm… tiếng loa quảng cáo, âm nhạc xập xình, đèn màu chấp chới…làm sống động một góc trời. Đoàn xiếc tạp kỹ nào cũng thế, không thể thiếu anh hề tóc vàng bù xù, cái mũi cà chua đỏ loét, cái miệng vẽ cười toét đến mang tai và đôi mắt buồn vô hạn; phải chăng đấy là dấu hiệu của cuộc đời? những tấn tuồng cười đó khóc đó của kiếp nhân sinh.

 Không biết nhân duyên gì mà Tim laị gắn bó với đoàn xiếc này, đôi khi tự nhủ lòng và cười thầm mà không biết phải trả lời sao. Sau khi học xong phổ thông, một lần tình cờ đi chơi và thấy đoàn xiếc tuyển người. Tim xin vào làm tạm thời, định bụng sẽ học tiếp hoặc xin một việc ổn định và có tương lai hơn, ấy vậy mà dính luôn đến tận bây giờ. Ban đầu chú Hai- ba của Tim cũng nghĩ là Tim làm tạm thôi, chứ ai laị theo đoàn xiếc lang bạt kỳ hồ như vậy, nhưng sau thấy Tim dính chặt với đoàn nên nhiều lần khuyên nhủ:

 - Con tìm công việc nào cho nó chính danh, có thu nhập và ổn định chứ theo đoàn xiếc hoài sao được? tương lai không có, người quen biết chê cười! 

 Tim im lặng chưa trả lời thì ông Hai laị nói: 

 - Dòng đời nghiệt ngã, người đời bạc lắm con! người thầy suốt đời dạy chữ cho người, khi nằm xuống không ai đọc cho một chữ. Người nghệ sĩ đem tiếng ca dâng cho đời, khi ra đi chẳng có ai hát cho một lời. Người làm trò suốt đời đem nụ cười tiếng khóc đến cho người, khi tàn hơi không có ai nhỏ cho gịot nước mắt. Người đưa đò suốt đời đưa người qua sông, đến khi mình qua thì chẳng có ai đưa…Con theo đoàn xiết rong ruổi như thế, rồi ngày mai sẽ ra sao?

 Bà Hai cũng càm ràm:

 - Con lớn rồi, tìm việc khác cho ổn định, còn phải lấy vợ sanh con, xây dựng tương lai… Con theo đoàn xiếc miết sao được! nhiều người quen của gia đình cứ hỏi thăm về con và họ xì xầm tiếng bấc tiếng chì. 

 Tim dạ dạ cho qua chuyện, một lần nghỉ phép về nhà. Ông bà Hai nói gắt quá,Tim bảo:

 - Con muốn sống tự do, cuộc sống của con như thế này cũng được, đừng bắt con theo cái lối mòn. Ba má thương con thì đừng ép con! 

 Ông bà Hai thôi không nói nữa nhưng trong lòng vẫn xót xa thương cho Tim:” Thằng nhỏ số long đong, cứ như dân du mục, không biết có bùa mê thuốc lú gì mà theo đoàn xiếc quanh năm.”

 Bạn bè Tim cũng cười cợt:

 - Sao không tìm một việc gì đó ổn định mà sống?

 Tuị nó giờ thành danh hết rồi, thằng Logan R làm văn phòng luật, thằng Carpenter J lấy bằng bác sĩ, thằng Keith J thì làm chủ tiện Nails, con Tammy N làm đaị lý bảo hiểm… nói chung tụi nó tiếng, có tiền trong cộng đồng. Con Tammy R bỏ Tim đã lâu, nó cặp với thằng Josh T- một đaị gia mua bán nhà cữa. Tim và Tammy yêu nhau suốt hai năm cuối phổ thông, sau khi Tim vào đoàn xiếc thì Tammy không hài lòng, nhiều lần cô ta bảo:

 - Anh tìm việc khác đi, theo đoàn xiếc người ta cười chết! 

 Tim không trả lời, hai tháng sau thì người ta thấy Tammy cặp kè với Josh. Thật tình Josh theo đuổi Tammy đã lâu nhưng ngặt nỗi lúc ấy Tammy còn yêu Tim. Tim biết tin nhưng  cũng không buồn. Anh biết chuyện phải thế thôi, cô ấy không có lỗi, nếu anh là cô ấy anh cũng sẽ làm thế. Làm sao một cô gái trẻ có thể sống với anh nhân viên đoàn xiếc, rày đây mai đó; tiền bạc và địa vị ai mà không ham, cho dù cái danh vị cỏn con là chủ tiệm nails hay văn phòng này nọ…Riêng trong tâm Tim thì chẳng may may có ý niệm gì về những cái danh vị ấy. Anh sống và hành xử như một chú bé, làm những gì mình thích, không màng chuyện khen chê của người đời, coi khinh những cái mà người đời tranh đoạt cho bằng được. Bởi thế trong nhà và bạn bè vẫn bảo:” Cái thằng xìu xìu ễnh ễnh, chẳng có chí tiến thân”. Từ khi Tammy bỏ, ban đầu cũng thoáng chút cô đơn, có lần sau đêm diễn. Tim cùng các bạn diễn vào quán bar trong thị trấn uống thả giàn, cả bọn hú hét tán thưởng những cô gái trần truồng múa cột, những tờ tiền xếp nhỏ nhét vào chiếc dây buộc ở bắp đùi và cánh tay các cô, đêm ấy Tim qua đêm với cô gái làng chơi trong lúc hứng khởi laị gọi tên Tammy. 

 Sáng hôm sau đoàn xiếc rong kéo về miền Cherokee, một trấn nhỏ bên bờ sông Cherokee, con sông nhỏ mà nước trong vắt. Ban ngày chưa diễn, Tim ra sông tắm, bọn con nít quanh đấy đang giỡn ầm ĩ cả khúc sông, chúng leo lên những cây sồi có nhành xìa ra mép nước rồi nhảy tùm xuống. Những chú bé con tóc vàng mắt xanh đẹp như những thiên thần, nghịch ngợm không kém những chú bé ngày xưa ở khúc sông quê Tim. Thuở ấy lên mười, Tim cùng lũ trẻ con trong xóm vẫn thường ra sông Hà Thanh  tắm, cả một trời kỷ niệm ùa về. Tim cũng leo lên cây sồi nhảy tùm xuống, vùng vẫy đã đời giữa giòng nước trong xanh. Tim nghĩ có tắm trong những bồn tắm sang trọng của khách sạn năm sao cũng không bằng tắm ở khúc sông này.Thằng Jack thấy Tim thân mật với tụi trẻ bèn nhắc nhở:

 - Tim, mày cẩn thận! đừng có quá thân thiện, không chừng ba mẹ nó thưa mày tội ấu dâm, quấy rối con nít là tàn đời đấy!

  - Cảm ơn mày, tao biết, tao vẫn giữ khoảng cách an toàn- Tim trả lời Jack 

 Ở cái xứ này việc gì cũng có thể thưa kiện cả, có những vụ kiện rất mơ hồ và vu vơ tỉ như: có bà uống cà phê, vô ý làm đổ trên đùi, thế là kiện vì cà phê nóng quá. Có người bất cẩn mà té, bèn kiện vì sàn siêu thị trơn. Có cô đi kiện chồng vì sau một thời gian chung sống bị hao mòn thân thể… Những vụ kiện không biết nên khóc hay nên cười đây? Có phải vì dòng đời như thế nên những anh hề luôn luôn vẽ mặt với cái miệng cười toe toét mà đôi mắt buồn đẫm lệ? 

 Ở cái xứ này quả là rất tự do nhưng đừng giỡn mặt với pháp luật, luật là lý không có chỗ cho chữ tình. Có những bộ luật to lớn đồ sộ, bao hàm cả thế giới, thậm chí vũ trụ như chiến tranh các vì sao, các tàu thám hiểm không gian… nhưng cũng có những điều luật vô cùng nhỏ nhiệm, chi li như:  gà không được gáy nhưng chó được sủa, cấm làm tình bằng miệng…( việc như thế làm sao mà biết, ấy vậy mà có luật hẳn hoi). Còn nhớ năm xưa, O.J. Simpson giết vợ, ấy vậy mà ra toà laị trắng án. Luật sư quá giỏi, tìm được kẽ hở của luật làm cho quan toà không sao kết án được. Simpson tránh được luật thế gian nhưng luật nhân quả thì không tránh được, chỉ chừng mươi năm sau thì Simpson từ giàu có trở thành nghiện ngập, trộm cắp và chết trong đói nghèo. 

 Tim theo đoàn xiếc rong ruổi bốn phương trên mảnh đất bao la này, gặp đủ hạng người, thấy nhiều cảnh đời. Nếu người phương Bắc: New York, Seatle… cao ráo, lịch lãm hơi lạnh lùng; người phương Nam: Alabama, New Orleans, Georgia… có vẻ cục mịch và bảo thủ hơn. Nếu người thành thị thì tính cách cởi mở, hào nhoáng, tiếp nhận những cái khác biệt về văn hoá, tôn giáo, giới tính… thì người nông thôn laị cực kỳ bảo thủ, nhất là những tay Mormons. Tim thấy mình như một loại chuối ruột trắng vỏ vàng, gốc phương Đông còn đấy nhưng đã pha quá nửa chất phương Tây. Sở dĩ Tim theo đoàn xiếc rong ruổi   đây đó cũng một phần ảnh hưởng từ những trang sách Đông phương, hình ảnh những hiệp khách giang hồ rày đây mai đó, trọng nghĩa khinh tài. Những ông tăng nơi thiền lâm thạch thất, cao sơn… vô cùng hào sảng, lãng mạn… kết hợp và hoà với hình ảnh các tay cao bồi Viễn Tây như anh chàng Lucky Luke; những tay nghĩa hiệp, cao thượng, hào hùng nhưng không kém phần lãng mạn, tài hoa! tất nhiên bọn họ rất tài giỏi và bản lãnh cao cường. Bởi thế mà người ta bảo:” Đông Tây hội ngộ”, hội ngộ ở đây, gặp nhau ở điểm này. Dòng đời thật không phải là những trang sách! Tim theo đoàn xiếc rày đây mai đó khắp bốn phương trời phần nào thoã cái chí xê dịch của mình, vừa được cái tự do nhiều nhất, không bị trói buộc bởi những khuôn phép sáo mòn, hình thức của người đời. Đoàn xiếc rong và những thành viên của nó như những người du mục của những thế kỷ xa xưa, vừa mưu sinh vừa thõa chí tang bồng

 Theo đoàn xiếc thật sự là ăn buị ngủ bờ, cơm chùa cháo chợ…Đoàn có bà Monica N- như một quản gia, quán xuyến mọi việc trong ngoài, lo việc ăn uống… Bà cao to, ăn to nói lớn tưởng chừng như thô tháo ấy vậy mà cũng rất nồng hậu. Khi mới vào đoàn, Tim không thích bà, có lần bà quát:

 - Bữa nào mày không ăn thì phải báo trước cho tao biết, tao sẽ không tính tiền bữa đó, bằng không tao sẽ tính! 

 Bà sòng phẳng đúng tính cách dân giang hồ, không nhưng nhị gì cả, tưởng chừng khô khan. Ấy vậy mà có lần Tim sốt li bì, bà mang một ly mật ong chanh nóng và mấy viên Tylenon đến, rờ trán Tim: 

 - Mày uống mấy viên Tylenon với ly nước này, ngaỳ mai sẽ khoẻ! 

 Quả thật vậy, hôm sau bớt sốt, từ đấy Tim nhìn bà Monica với một cái nhìn khác. Sau đó Tim kêu bà bằng mama, bà cười to, chỉ vào ngực Tim:

 - Tao không phải là má mì, tao là quản gia cho đoàn xiếc nhé! 

 Nói xong bà cầm ly Whishky tu một hơi cạn sạch, làm Tim laị nhớ về một bà già ở chợ quê ngày xưa. Khi Tim lên bảy, gần nhà Tim có bà Tư bán rau sống. Người ta kể chồng bà đi tập kết ngoài Bắc,  khi về đem theo một bà ngoài ấy về theo, sau đó họ đánh đuổi bà Tư ra khỏi nhà. Bà Tư phải sống nhờ ở góc chợ Bà Bâu, ngày ngaỳ bán rau sống. Mỗi ngaỳ hai lần, bà Tư cũng ghé quán bà Bảy để làm xị đế, bà laị hay nói liệu. Người xóm chợ thấy thế thường hay chọc ghẹo cho bà nói liệu lấy đó làm trò cười. Có nhiều người ác tâm bày con nít hốt ổ kiến lửa ném vào nơi bà ngủ. Tim thấy thương bà lắm nhưng không biết  làm sao giúp bà được cả. Bà Monica uống rượu như nước làm cho hình ảnh bà Tư uống rượu trong ký ức xa xưa hiện về. Từ lâu những chuyện cũ, những hình ảnh thơ ấu đầu đời những tưởng đã mờ nhạt, ấy vậy mà nay bất chợt hiện về. Tim laị gần bà Monica nói:

 - Cảm ơn bà rất nhiều bà Monica! 

 Bà nhìn vào mặt Tim:

 - Mày cảm ơn tao vì chuyện gì?

 Tim cười cười:

 - Cảm ơn bà vì mọi chuyện mà cũng chẳng vì chuyện gì cả! cảm ơn vì dòng đời thế thôi! 

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 3/2020 

 

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .
Nhạc sĩ Hùng Lân mất vào ngày 17/9/1986 tại Sài Gòn. Hôm nay, ngày 17/9/2025 tôi nhớ tới ông. Tính ra đã 39 năm. Ba năm trước, tại nhà thờ Phanxicô Dakao đã có một lễ giỗ 36 năm ngày mất của ông. Linh mục Đỗ Xuân Quế, chủ tế lễ giỗ, đã nói trong thánh lễ: “‘Hôm nay là lễ giỗ thứ 36 của ông Phêrô Hoàng Văn Hương tức là nhạc sĩ Hùng Lân. Ông là người đáng cho chúng ta trân trọng và quý nhớ. Vậy chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho ông được vào nước Thiên Chúa. Nếu ông đã được vào rồi thì xin nhớ đến chúng ta là những người đang tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế đang hướng về Nước Trời.” Sau thánh lễ là chương trình tưởng niệm trong đó có tiết mục trình diễn nhạc của Hùng Lân, cả nhạc đạo lẫn nhạc đời. Người dẫn chương trình cho tiết mục này là nhạc sĩ Cao Huy Hoàng, đến từ Phan Thiết. Ông chia sẻ: “Nếu ngày ấy, thầy Hùng Lân qua đời, Chúa hỏi ‘nén bạc của ta đâu?’, thầy có lẽ không trả lời hoặc chưa trả lời kịp thì hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại và thấy được rằng nén bạc của thầ
« Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng, có người con gái đẹp như trăng… khi gặp em rõ thấy một bà chằng! » … Chằng tinh, hay chằn tinh là một loài người hay cũng coi là một loài quỷ hung ác. Tùy vào hoàn cảnh, tùy vào người ta gặp, ta đối diện. Nay thế giới có nhiều loại chằn tinh, chằn ở trong mọi lãnh vực, chính trị, văn hoá, kinh tế, giáo dục và cả trong xã hội v.v…Do đấy, ta muốn tìm hiểu nguyên do chằn ở đâu ra. Hẳn là trong văn hóa Nam Bộ Việt Nam - Ấn Độ - Khmer…? Theo tác giả Huỳnh Thanh Bình, chằn là một loại sinh vật truyền kỳ, làm hộ pháp, canh giữ chùa, tháp, chánh điện phật giáo nam truyền và chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa và tâm linh của người Khmer nam bộ, phổ biến trong kho tàng truyện kể dân gian và tuồng tích sân khấu của đa phần người Đông Nam Á.
Cả ông ta và tôi cùng cười xòa. Ui, mình đúng là đãng trí thứ thiệt. Phần Lan đã gia nhập Eurozone từ 1999 và dùng Euro ngay từ buổi đầu như những quốc gia thành viên khác. Ngày trước, nhắc đến những thủ đô bắc Âu, người ta thường nghĩ đến Oslo giàu có của Na Uy, Copenhagen trẻ trung của Đan Mạch. Giờ đây, Helsinki dần dà từng bước góp mặt vào danh sách những thủ đô được du khách ưa chuộng. Sức thu hút của thành phố ngày càng tăng. Từ 15 năm nay, Helsinki là một trong những thành phố tân tiến nhất Âu châu.
Bà xỏ chân vào đôi dép, lê lẹp xẹp vào buồng. Bà lấy ra một bịch nhựa trong đó đựng trăm thứ lặt vặt không ra hình thù gì. Bà nhìn trước, ngó sau như người ăn trộm. Chị mua ve chai đứng ở ngoài cửa bếp. Như một việc đã quá quen thuộc, chị đón lấy cái túi, móc vào cái cân xách. Trước kia chị phân loại giấy ra giấy, nhựa ra nhựa, nay thì hai bên đã thỏa thuận với nhau là có một cái giá trung bình cho toàn thể. Bà thì nhìn đăm đăm vào mớ hàng lặt vặt ấy như nhìn một thứ gì quý giá lắm. Mà không quý sao được, vì đó là kết quả của nhiều tuần bà lượm lặt và cất giữ.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.