Hôm nay,  

4 giờ 30 phút PM

13/03/202000:00:00(Xem: 4674)

Minh Hoa Cao Ba Minh_Di chung voi bai 4 gio 30 phut



Vì ngươi là tuổi trẻ, ngươi cần phải làm một việc gì đó, tự do của ngươi đã bị lấy mất từ ngày thành phố đóng cửa. Nhưng ở đây có ai được tự do đâu, và nhiều thành phố khác, hình như hơn năm chục thành phố khác cũng đang bị đóng cửa. Thi thoảng, ngươi nhìn qua cửa sổ, có một nhóm người mặc áo bảo hộ kín mít, im lặng khiêng một cái túi, việc diễn ra hồ như bất động, có cảm giác mọi thứ đang dần đóng băng. Ngươi cố gắng bẻ một miếng lương khô cho con Vàng Ô, dường như nó là đứa duy nhất còn có tự do trong gia đình ngươi. Nghĩa là nó được đi lại trong vòng tám giờ đồng hồ nữa, khi mọi thứ bắt đầu giới nghiêm thì ngươi có trách nhiệm phải giữ nó trong nhà. Bởi các đoàn công vụ chuẩn bị chiến dịch tiêu diệt. Tự dưng, ngươi muốn hét lên thật to và cố gắng đẩy tiếng hét của mình ra bên ngoài thế giới. Mọi thứ đã bị khóa kín, internet chập chờn, nếu gửi video thì có thể chờ cả ngày để nó kết nối rồi lại rớt. Ngươi chỉ muốn làm một thứ gì đó tựa như giết một thứ gì đó hay giết chính sự đi lại của con người trong chốc lát.

Dường như không còn ai. Mặc [H1] dù bên kia tường là một gia đình khác, và bên kia tường nữa là những gia đình. Nhà của ngươi ở đầu hồi, theo quan niệm của giới bất động sản bây giờ gọi là lô góc, nơi mà từ khoảng sân nhỏ xíu có giàn bông giấy cũng nhỏ xíu, ngươi có thể hình dung mình nhỏ nhoi ngồi dưới vòm trời thành phố và cái thành phố cũng nhỏ nhoi dưới vòm trời khí quyển, và cái vòm trời khí quyển cũng nhỏ nhoi, bé tẹo trong cái vòm trời vũ trụ này. Tính ra, ngươi chưa bằng một phần tư hạt bụi. Và cũng từ nơi đây, nếu nhìn chếch về phía phải, nơi cuối đường là góc sân nhà thờ, nơi có những cây bách rất cao, thả tán lá xuống che mát chỗ mấy chiếc ghế đá, và hình như nó cố tình che mát mấy ngôi mộ của các vị cha xứ, trong đó, có những vị cha người Pháp đã từng đi khắp Đông Nam Á để truyền giáo để rồi vĩnh viễn nằm lại nơi này. Nếu nhìn sang bên trái là khu công nghiệp, nơi mà trước đây hai mươi năm, đây là khu nghĩa trang, tối đến, những gia đình nhớ người thân mang nến ra thắp, ban đầu có vài gia đình, sau đó, hình như mọi gia đình đều mang nến ra thắp mỗi đêm thứ Bảy và Chúa Nhật. Hồi đó, ngươi có thể ngồi và nhìn thẳng về phía trước mặt, nghĩa là ngay trước ngôi nhà của ngươi là một ngọn núi cao, thi thoảng các tiều phu đốt củi, nếu nhìn kỹ, ngươi có thể nhìn thấy dáng họ nhỏ xíu lúi húi với ngọn lửa của mình. Nhưng bà của ngươi nói rằng nếu muốn tới chỗ các tiều phu, người ta phải tốn hơn một ngày đường đi bộ.

Giờ giới nghiêm cũng đã điểm, Vàng Ô vốn quen đi lại tự do, nó không phải là loại bạ đâu tè đó hoặc cứ nhìn thấy gốc cây là ị. Nó được thuần dưỡng và huấn luyện rất kỹ, nó gần như có mọi thứ ý thức giống với con người, trừ những lúc nghe mùi phát dục của một con cái nào đó thì nó không thể kiềm chế, nó có thể bứt tung mọi xiềng xích và nhảy băng qua hàng rào hoặc tự dùng chân trước để khèo chốt rồi mở cửa mà băng ra chỗ có mùi xạ hương. Điều đó làm ngươi lo sợ, bởi nó cũng là con chó rất hãnh tiến, nó có thể đánh bật mọi đối thủ khi gặp một nàng chó cái nào đó. Nhỡ trong giờ giới nghiêm này, nó nghe mùi xạ hương thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ngươi bắt đầu cầu nguyện cho điều đó đừng xảy ra.

*

Lúc này, mi nhớ tới nàng, không hiểu sao nàng lại xuất hiện ngay lúc này, khi mà mọi thứ đang trở nên hỏng hóc và đông cứng. Nàng vốn dĩ là cô gái dị biệt nếu không nói là lập dị, nàng ít phô trương và hình như không có thói quen đó. Nàng ít nói, thích im lặng ngồi một mình và ở những đám đông, dường như nàng thường biến mất trong sự ồn ào của người khác. Mà cũng rất hiếm khi nàng có mặt ở các đám đông, trừ cái ngày đám cưới của anh trai nàng. Nhưng mọi sự thoáng qua rồi thôi, nàng xem như mình chưa từng có mặt ở đó. Nhưng nàng lại có một cá tính đặc biệt đến kỳ quặc, nàng không tranh sống với bất cứ ai nhưng lại thích chết tiên phong. Nàng nói rằng cha nàng đã dạy cho nàng cách sống này mặc dù ông mất khi nàng còn mấy tháng trong bụng mẹ. Ông chết trong một cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra. Ông là một hậu duệ của người Hoa đã sống trên đất Việt gần năm đời. Ông tổ của ông vốn là một vị tướng muốn phục thù cho triều đại cũ, tức triều Minh, ông đã nêu cao ngọn cờ “phản Thanh Phục Minh” và dắt một đoàn tùy tùng, lưu dân dong buồm ra khơi, sang xứ này để ẩn nấp và chờ ngày phục hận, đoàn của ông đến Hà Nội và được cho tá túc nhưng chỉ một số ít, các nhóm còn lại phải vào Thanh Hóa, ông xin đi tiếp vì không muốn đến Thanh Hóa, bởi nơi đây vừa là vết thù vừa là vết nhục của ông và tổ tiên ông, nơi đây, ông tổ của ông đã bị quân Lê Lợi giết chết, và triều đại mà ông muốn phục dựng cũng chỉ là kẻ đi xâm lăng đất Việt và từng bị người anh hùng nơi lam sơn chướng khí này đánh đuổi. Ông quyết định dong buồm đi tiếp vào Đàng Trong và sau đó, dong ruổi đến nơi này, cái nơi mà bây giờ, cha nàng và nàng đã sống.

Có lẽ vì hiểu được câu chuyện và trở nên gắn bó với quê hương thứ hai này, cha của nàng đã tham gia tình nguyện quân trong cuộc chiến chống quân Tàu ở biên giới phía Bắc. Nói cho cùng, khi cha nàng cầm súng ra trận nghĩa là đang bắn vào những người quê hương bản quán và có khi, trong số những người đó là bà con, họ hàng cũng không chừng. Nhưng ông quyết đi, ông nói rằng quê hương là nơi con người gắn bó và đón nhận những ân sủng trời đất, tình người. Với ông, quê hương là nơi này, nơi ông đã được cha mẹ chôn nhau, cắt rốn và đặt tên, để rồi ông lớn lên và sau đó chính ông lại mang bịch nhau của các con để chôn xuống đất mẹ. Ông cần phải bảo vệ đất mẹ và chống lại sự bành trướng phi nghĩa. Và ông đã tòng quân khi mẹ nàng còn mang thai nàng.

Nghe đâu, ông đã nói chuyện với nàng, lúc đó ông chỉ căn dặn nàng một điều duy nhất rằng phải sống cho xứng nghĩa con người. Mà sau này, nàng buồn cười khi nghĩ đến điều này bởi cái câu ông dạy cũng rất mơ hồ, con người thì thiên hình vạn trạng, sống cho xứng nghĩa với con người thì con người nào cũng tự xứng nghĩa với nó. Vấn đề ở đây có thể là số phận, chính số phận đã ném nàng vào chỗ nào, từ bao giờ và trong thời điểm ấy ra sao để từ đó nàng hun đúc nên một thứ gì đó sâu thẳm như cái hang sói đẻ rồi làm một con sói ngày đêm hú gọi bạn trong hang tối. Để đến một lúc, con sói bước ra cửa hang và mặt trời làm chói mắt, nó phải nhắm mắt vài lần trước khi chạy vào rừng kiếm ăn. Dường như mọi thứ đều do số phận, chính số phận gắn cho con người ta biết mình là loại người gì, con người như thế nào và yêu lấy nó để tiếp tục bước đi mặc dù chẳng biết sẽ đi về đâu. Cái câu cố gắng sống xứng nghĩa con người nghe rất sến sùa nhưng nó khiến người ta động lòng trắc ẩn trong nỗi mất mát nào đó. Nàng từng nghĩ vậy.

Lần đó, ông đi và biền biệt không trở lại. Nghe đâu người đồng đội cũ đã liên lạc với hội cựu chiến binh để tìm xác ông, và người bạn này nhận được một số tiền để đi lại, nghe đâu ông ấy đã tìm đến cánh rừng hoa sim, nơi trận đánh đã diễn ra, ông ấy cũng đã dạo quanh xứ Lạng và lên một ngọn đồi cao, nơi có thể nhìn sang phía bên kia là nhà của những kẻ từng mang súng sang bắn ông và đồng đội ông, không ngoại trừ việc họ đã bắn những dân thường. Và điều này khiến ông nhớ lại hình ảnh những nữ dân quân tự vệ bị chúng bắt, lột hết áo quần rồi dắt vào rừng, ông lúc ấy cầm trái lựu đạn, đã rút chốt và chỉ muốn ném về phía đoàn người. Nhưng rồi lại cài khóa an toàn trở lại, chỉ cần ông buông tay, mỏ vịt đá kêu “tạch” thì mọi chuyện đã khác. Nhưng không, ông thấy họ không đáng chết, và ông tiếc thương cả những đồng đội cũng như những người phía bên kia. Sau chiến tranh, chẳng mấy ai nhắc tới ông và cũng chẳng mấy ai nhắc về cuộc chiến tranh, ông gần như cần phải biết trang bị cho mình một chiếc vỏ ốc chứa nhiều bóng tối. Bóng tối như một thứ có thể cứu rỗi cuộc đời ông.

Và ông đã cố gắng để sống nhưng sự tồn tại qua ngày như một thách thức, bà vợ bắt đầu tìm miếng ăn ngon ở những thằng đàn ông khác, và nghe đâu có một thằng là doanh nhân nào đó đã sang xứ của ông để đầu tư, hắn đã rủ rê vợ ông. Những bữa ăn ngon, những quán hàng sang chảnh và những đồng tiền đỏ au màu máu rủ rê vợ ông. Ông thấy mình bất lực, ông thấy bao lý tưởng tốt đẹp của người vợ đã bị ông cướp mất, bà từng yêu ông vì sùng bái hay thần tượng một người lính trở về từ sa trường với đầy đủ khói bụi chiến chinh như ông. Thế rồi cơm áo gạo tiền làm cho mọi thứ trở nên nháo nhào, và hiện tại, hình như bà đang đú đởn với tay doanh nhân kia, hắn là cựu chiến binh trở về từ chiến trường Đông Bắc Việt Nam. Cách đây mấy mươi năm, không chừng đạn của hắn đã cướp đi tính mạng đồng đội ông và cả một phần xương vai của ông. Nhưng có hề chi đâu, bây giờ hắn có tiền, còn ông thì kiếm từng đồng mót. Và ông nghĩ đến chuyện xin các đồng đội đã khuất cho ông mót vài đồng trên xác họ. Ông thành lập đội tìm kiếm mộ liệt sĩ, ông đã mang về thật nhiều xác đồng đội và đương nhiên ông cũng dư được khoản kha khá. Nhưng cho đến khi người ta phát hiện ra đất đá bên trong mộ mà ông tìm về.

Ông vẫn không thôi ý nghĩ rằng các đồng đội của ông sẽ tìm đến những ngôi mộ vô danh và mỗi cục đá trong mộ vô danh kia là một loại hình nhân thế mạng, nó giống những hình nhân thế mạng trong mộ gió. Nhưng ở đây, ông đến đúng vị trí chiến đấu và ước đoán nơi ấy từng có máu đồng đội nhỏ xuống, bốc một nắm bỏ vào áo quan và ra về. Dần dà, việc ấy cũng trở nên chểnh mãng và ông nhận ra là hình như mọi thứ đang xoay quanh mùi thơm của đồng bạc mới in, trên ấy in hình Bác tươi cười đầy quyến rũ. Ông trượt dài, cho đến ngày…

*

Nàng thấy mọi chuyện trở nên khôi hài kể từ lúc người ta phát hiện trong mộ của cha nàng, một anh hùng liệt sĩ, chỉ toàn đất và đá. Nhưng nàng không oán giận và càng không thấy bất ngờ, bởi trong thời đại của nàng, mọi thứ giả đều có thể thành thật nếu người ta chịu khó tin nó cho an toàn tính mạng. Nó cũng giống như hiện tại, con số người chết có thể lên rất cao nhưng người ta không được phép biết và mọi bệnh án đều có thể thay đổi. Nó cũng giống như truyền thống các lãnh đạo thay đổi thân thế để duy trì quyền lực vậy. Đương nhiên, nàng không hề trách ông ấy, bởi người ta cũng cựu chiến binh, khi về làng xênh xang xe ngựa, ông ấy thì lủi thủi, cái giá để trả cho chiến tranh thì ngang nhau nhưng thứ nó mang lại cho mỗi người rất trái ngược nhau, thậm chí rất trái khoáy. Ông ấy đáng giận chứ, bởi ông ấy buôn trên xương máu đồng đội, nhưng rồi, ít ra sự giả dối của ông ấy cũng vô tình nhắc nhớ về một cuộc chiến và những cái chết bị đạp dưới lãng quên. Nhưng dù sao thì không có ai đáng được tha thứ cũng như không có ai xứng đáng để được nhận trừng phạt. Đó là thứ bi kịch rất ư cực đoan và cà chớn.

Nàng chỉ thương cho con mèo của nàng và con chó của anh ấy, nếu như nàng và con mèo vẫn còn chút tự do khi được đi lại và lựa chọn thức ăn, nước uống, còn anh ấy và con chó Vàng Ô, có lẽ đang tiu nghỉu nằm chờ một thứ gì đó tựa như cái chết. Nghiệt nỗi, người ta không được quyền định dạng mình sẽ chết hay tiếp tục sống, cũng giống như việc người ta không được tự do để định dạng mình là con người hay thú vật. Bởi trước đại dịch, cả người và vật đều mang dịch và có thể lây truyền sang người khác như nhau.

“Chỉ có mày đang được tự do, giây phút tự do của Vàng Ô bạn mày đã không còn. Mày cố lên nhé!” Nàng nói vậy với con mèo cưng và thấy mọi thứ chung quanh như không hề có mặt, sự hiện hữu của mọi vật như một thứ ảo giác đánh lừa mọi người cố gắng níu kéo thêm những ngày và đêm dài trên mặt đất để tiếp tục ăn, ngủ, làm tình, đẻ con rồi lại hì hục làm việc, hì hục làm mọi chuyện để rồi tiếp tục ăn, ngủ, làm tình, bài tiết và cứ như vậy lặp đi lặp lại…

Giá như có cha nàng bên cạnh vào lúc này, nàng sẽ nói rằng ông là người may mắn, vì chí ít ông không phải tiếp tục cái chu kỳ rất ư quái dị mà con người luôn tranh phần đứng lên hàng trước, và càng đứng gần cái chết, người ta càng kiêu mạn. À, mà thực ra thì cũng chưa chắc có được danh dự để tin chắc rằng đứng lên hàng trước chờ cái chết, hình như người ta đứng lên để nhận miếng ăn, người ta sợ mất miếng ăn hơn sợ cái chết. Chính vì vậy có rất nhiều người ưa làm anh hùng để có miếng ăn mặc dù bản thân họ không có được điều đó.

*

“Mày còn được mấy chục phút tự do, hãy tranh thủ mà đi lấy giùm tao một ít thức ăn, nhớ ghé thăm mộ bà và cố gắng quay về trước 4h30 phút nha! Nếu không kịp, hãy nấp trong nghĩa địa đến khuya rồi quay về. Nhớ cẩn thận. Tao yêu mày!”

Mi đã nói như vậy với Vàng Ô, trước khi mở cửa cho nó ra ngoài, đương nhiên trước lúc mở cửa, mi đã quan sát rất kỹ chung quanh, không có nhân viên cảnh sát hay tay dân phòng nào đi lại chung quanh, mi chỉ hy vọng các camera đừng quá nhiều chuyện để lọt đến tai chính quyền. Vì nếu như Vàng Ô không kịp về trước giờ giới nghiêm, nó sẽ vĩnh viễn không về được. Cũng như việc Vàng Ô đến thăm mộ bà, nếu như nó quyến luyến, chần chừ ngồi lại với bà hơi lâu một chút, nó sẽ không có cơ hội ra khỏi nghĩa trang một khi những chiếc camera kia nhiều chuyện. Nghĩa là chủ nhân của những chiếc camera sẽ báo lên chính quyền rằng Vàng Ô đã đi ra khoảng giờ đó và chưa trở về lúc giờ giới nghiêm. Lúc ấy, chính quyền sẽ biết họ phải tìm nó ở đâu, bởi Vàng Ô từng nổi tiếng, chính quyền từng truy tặng bằng khen Trung Nghĩa Chi Vật cho Vàng Ô. Hồi bà còn sống, dường như Vàng Ô không thân với ai hơn bà, điều đó cũng dễ hiểu bởi bà mang nó về từ một sọt rác nào đó, nó bị thương và có nhiều mủ trên lưng, bà đã nhờ thú y chạy chữa cho nó và bà quyết liệt giữ nó trong nhà mặc dù cha của mi phản đối kịch liệt. Dần dà, Vàng Ô lớn khôn và quấn quýt lấy bà, ngoài bà ra thì nó chơi với mi. Nó rất ngại mỗi khi cha của mi xuất hiện hoặc đến gần nó. Thế rồi bà qua đời, Vàng Ô đưa bà ra nghĩa trang và ở lại đó, không về, mãi cho đến gần hai tuần, nó không ăn uống, nằm liệt bên mộ, báo chí đăng bài về nó, chụp hình nó, cộng đồng xem nó như một biểu tượng của sự trung thành, Bộ văn hóa thì phong tặng danh hiệu Trung Nghĩa Chi Vật cho nó. Nó vẫn nằm bên mộ với đầy đủ bằng khen và thức ăn để chờ chết.

Mi khóc van nó về nó vẫn không chịu về, mãi cho đến khi cha của mi lại vuốt ve, dỗ dành nó và hứa sẽ không đối đãi xấu với nó thì nó nhổm dậy cho ông bồng về. Lúc ấy, mi càng thấy thương Vàng Ô hơn, bởi nó không cố gắng làm một loài trung thành gì đó mà nó cần một chỗ sống tốt, an toàn, nó thèm sự ân cần và tử tế. Nó không mong mỏi được ai đó khen hoặc nó không quá trung thành đến độ mù quáng, đơn giản, nếu như chọn một nơi sống thiếu tử tế thì thà nó chết bên người từng tử tế với nó mà tốt hơn. Còn giờ, cha của mi đã tỏ ra ân hận, biết yêu quí nó thì nó lại quay về, điều đó rất tự nhiên và dễ hiểu. Mi cảm thấy yêu quí và gần gũi với Vàng Ô bây giờ hơn với một con Vàng Ô anh hùng được báo chí tung hê và nằm chờ chết trước đó vài giây. Và chính vì sự tung hê này, có thể, lần này nếu như Vàng Ô sơ suất, mọi danh dự và thể diện của nó sẽ mất, ít ai thông cảm được lúc này, người ta có thể gọi nó là kẻ trộm, và gia đình mi cũng không còn gì sau khi nó chết.

Bởi, hằng tuần, đúng vào lúc siêu thị đóng cửa để vệ sinh dịch tễ, thường là đầu giờ chiều thứ Sáu, thì Vàng Ô sẽ băng qua con đường, chạy dọc theo dãy phố Tàu và sau đó chui vào gara xe, đi luồn theo đường cầu thang thoát hiểm và chui vào các quầy hàng, nhẹ nhàng cắn bỏ những nhãn mác có mã vạch và cho tất cả vào một chiếc túi ny lông, sau đó ngoạm về nhà. Thường là thịt, xúc xích, bơ, thi thoảng có thêm bịch gạo ngon. Bởi Vàng Ô rất biết chọn, mà chỉ có gạo ngon mới bỏ trong túi nhỏ, bán lượng nhỏ. Nói thì thành chỗ ốt dột, trong suốt mùa dịch này, nhà mi không có ai chết không phải giỏi giang chi mà nhờ vào Vàng Ô. Bởi Vàng Ô đã liên tục đến siêu thị tha các bịch thức ăn về, các túi dinh dưỡng này giúp mọi người trong nhà có sức đề kháng, vượt qua mọi thứ. Hầu hết những gia đình bị chết trong thành phố đều do thiếu lương thực, thiếu dinh dưỡng. Họ là dân nghèo hoặc không đến nỗi nghèo nhưng chưa kịp dự trữ lương thực và thực phẩm thì dịch ập tới, thành phố đóng cửa và họ bị cấm cửa ra ngoài. Nhà giàu, có nhiều tiền thì có thể hối lộ cho những cán bộ y tế đi tuần tra để họ mua giúp một ít thức ăn, còn với người nghèo, họ không tài nào mua thức ăn nổi bởi quá đắt thì lấy đâu ra tiền hối lộ. Cuối cùng, có thể hơn một nửa chết vì đói, thiếu dinh dưỡng chứ không phải chết bởi thiếu thuốc. Đương nhiên thuốc chỉ là tượng trưng và đức tin thì nhiều hơn… Mi đã nghĩ vậy trong lúc nhìn đồng hồ và bắt đầu lo lắng cho Vàng Ô.

*

Từ nhà chàng có thể nhìn ra thấy núi, nơi ngọn núi mà trước đây vài mươi năm, các tiều phu hiền từ, thật thà đến đây đốn củi, họ chặt những cây đã già và mục, đốt lấy than những phần gãy đổ và giữ những phần cành bó lại mang về chợ. Than và củi giúp họ kiếm cơm qua ngày, hồi đó họ đốt hằng đêm nhưng không bao giờ có chuyện cháy rừng bởi ai đó vô tình ném tàn thuốc như bây giờ. Nghe đâu rừng có nhiều linh trưởng, trăn và cọp beo. Nhưng chưa có tiều phu nào bị chúng bắt, thi thoảng họ mang thêm một ít lá sâm dứa tím về để nấu thành món thạch và bán ngoài chợ. Chỉ vậy thôi. Nếu nhìn chếch về cuối đường thì gặp thánh đường, bên trong thánh đường có viện mồ côi, nơi nàng từng sống lúc nhỏ. Hồi đó cha của nàng đi đánh trận Đông Bắc và không về, mẹ nàng một mình lo cho bốn người anh trai và nàng nữa, không thể đủ ăn. Bà gửi nàng nhờ các sơ nuôi giúp, bà đã khóc hết nước mắt để nhờ vả các sơ bởi nàng không phải đứa mồ côi nên khó mà nhận, và khi các sơ đồng ý nhận thì bà lại khóc hết nước mắt từ biệt con. Nàng bắt đầu một cuộc sống khác từ đó. Bạn bè của nàng cũng khác lạ so với những đứa trẻ khác. Nhiều khi nàng tự hỏi cuộc đời của mình như vậy là buồn hay vui. Và rồi nàng buông một câu chửi thề “cuộc đời này có đếch gì vui mà hỏi nó có buồn không!”

“Ta sẽ làm một điều gì đó để thay đổi thế giới, ta có thể là một trong bảy người làm thay đổi thế giới”. Đôi khi những câu hoang tưởng như vậy ám lấy cuộc đời của nàng, những lúc mệt mỏi nhất, khi bị chủ nhục mạ (nàng đi rửa chén bát thuê để kiếm thêm chút tiền góp với các sơ nuôi đàn trẻ mồ côi nhỏ hơn nàng), và rồi mọi chuyện xem như không có gì, bởi lúc người ta nhục mạ, nàng đang bận suy nghĩ sau này mình làm việc gì mà lại là một trong bảy người làm thay đổi thế giới? Mình sẽ làm gì? Sẽ làm gì? Sẽ làm gì?... Điệp khúc ấy lặp đi lặp lại mỗi khi nàng bị chửi. Và hình như cả những khách hàng khó tính cũng không mấy người thiện cảm với nàng, nàng cũng không hiểu vì sao, thường thì họ không ưa gương mặt buồn bã của nàng, có lẽ do vậy, buổi sáng, nàng được chủ cho xuống phụ bếp và rửa chén bát, đến trưa mới được dọn dẹp bàn ghế và được ăn sáng.

Chàng, hình như chỉ có chàng và con Vàng Ô của chàng là tốt bụng với nàng, mỗi khi gặp chàng và nó, nàng có cảm giác mình đang gặp những bạn thiết và đang được đối xử như một con người. Nàng thấy chàng dễ thương, Vàng Ô dễ thương và bản thân nàng cũng dễ thương. Chỉ vậy thôi, đôi khi cuộc sống chỉ cần vài phút được thấy an bình là đủ, giống như một người đang cố gắng bơi giữa dòng xoáy, chỉ cần vài giây ngoi đầu để lấy hơi rồi tiếp tục cựa quậy, vậy là có quyền hy vọng mình sống.

Nhưng hôm nay đã là giờ giới nghiêm ở khu phố của chàng. Liệu chàng có đủ thời giờ để mua sắm lương thực, vì thực ra con người đã bị giới nghiêm gần một tháng nay, chỉ có chó, mèo là chưa bị giới nghiêm. Nhưng hôm nay, lúc 4h30 phút chiều, giờ giới nghiêm của chúng sẽ đến. Thật là kinh khủng khi con người, động vật cùng ngoi ngóp cựa quậy trong vài chục mét vuông và những con vật không hề có thói quen sử dụng toilet. Nghĩ đến đây, nàng rùng mình. Nhưng chắc chắn một điều là gia đình chàng sẽ không bao giờ chấp nhận để Vàng Ô chết. Họ xem nó là một con người, nàng biết vậy!

*

4h30 phút. Những nhóm người bắt đầu đi rảo, có tiếng chó sủa, tiếng mèo gào và cả những tiếng đập, sau đó là tiếng kêu gào đau đớn của chó và mèo. Mi không dám nghe, mi cố gắng bịt tai và cầu nguyện cho những linh hồn đang quằn quại ngoài kia. Mi cầu nguyện cho các linh hồn mới kêu gào đau đớn được bình an và những linh hồn u tối, đang vung tay vấy máu kia cũng được bình an, trở về với bản nhiên. Nhưng rồi tiếng kêu gào và tiếng đập cứ dội vào mi, nó không phải tiếng gõ mõ, càng không phải tiếng chuông chùa, nó là âm của lời cầu nguyện đã đánh mất và niềm tin nhuốm màu khói thuốc súng, máu, dùi cui và ánh mắt tàn độc. Mi rùng mình.

Mi chỉ cầu nguyện sao cho Vàng Ô đừng về lúc này, nó hãy ở lại bên mộ bà. Nhưng rồi mi cầu nguyện nó đừng nằm bên mộ bà, nó hãy trốn vào những ngôi mộ hoang trong nghĩa địa, bởi nếu nó ở bên mộ bà, nhiều người sẽ biết, bởi nó đã từng nổi tiếng trên mặt báo.

6h chiều, Vàng Ô vẫn biệt dạng.

22h đêm, Vàng Ô không về.

1h sáng hôm sau. Vàng Ô nằm rên rỉ dưới góc bếp làm cả nhà mi giật mình. Miệng nó vẫn ngoạm một bịch thức ăn mang về từ siêu thị, thân nó bê bết máu, mắt nó đã trắng dã. Cả nhà mi cố gắng cấp cứu lấy nó, bằng mọi giá. Nó loạng choạng đứng dậy và đi, điều đó làm cho mọi người cảm động và mừng rươm rướm. Nhưng rồi, nó đến chỗ bàn thờ bà, nằm đánh huỵch xuống và thở ra một hơi dài, một hơi thở của một con người đã đi một quãng đường quá dài và mệt mỏi, thở ra một hơi để trả mọi thứ lại cho con đường. Nó nhìn mọi người lần cuối.

Cha của mi, vốn là người trầm tính, ít nói, ông vuốt mắt Vàng Ô và nói khẽ: “Con đi bình an nhé. Tự do cuối cùng của chúng ta đã mất… Thôi con đi bình an!”.

Đêm đó, mi nằm mơ thấy bà dắt Vàng Ô đến thăm nhà nàng nhưng người ta không cho ra khỏi phố, vì đang giờ giới nghiêm.

 

 


 [H1]

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.