Hôm nay,  

Những Người Không Chịu Chết

17/04/202015:27:00(Xem: 4914)

 

 

blank

 

Kỷ niệm Quốc Hận 30 tháng Tư, 2020

 

Bài viết này lấy cảm hứng từ tựa đề của một tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam Cộng Hoà. Đó là tựa đề “Những người không chịu chết” (1972), một trong những vở kịch nổi tiếng của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan. Lúc vở kịch ra đời, tôi hãy còn nhỏ lắm, nhưng cũng phần nào đủ trí khôn để thưởng thức vở kịch này. Tôi được đọc vở kịch trước rồi sau mới xem kịch trên truyền hình. Đã mấy mươi năm rồi nên bây giờ tôi chỉ còn nhớ lờ mờ rằng vở kịch đó nói về một nhóm tượng người mẫu, cứ đêm đêm đêm lại trở thành người, sống, ăn nói và sinh hoạt như bao con người bình thường khác, với đầy đủ tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, thất tình lục dục. Bài viết này mượn cảm hứng đó để nói về—không hẳn chỉ là những con người—mà còn là những thực thể khác, cũng không hề chịu chết, qua dòng lịch sử nghiệt ngã của nước Việt, tính từ ngày 30 tháng Tư năm 1975.

 

cờ long tinh      cờ quẻ ly

                 cờ vàng ba sọc đỏ             CỜ VÀNG

 

          LÁ CỜ KHÔNG CHỊU CHẾT! Đó là lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ tượng trưng cho tinh thần dân chủ và tự do của mọi người Việt khao khát một cuộc sống an lành, hạnh phúc, xứng đáng với nhân phẩm. Lá cờ này không nhất thiết đại diện cho một chế độ hay một chính phủ nhất thời mà là một sự tiếp nối truyền thống lâu đời của một dân tộc hào hùng. Nền vàng của lá cờ bắt nguồn từ cả ngàn năm trước, thuở Hai Bà Trưng quyết đánh đuổi quân Hán xâm lược, “đầu voi phất ngọn cờ vàng”. Một số vì vua sau đó cũng dùng cờ vàng để làm biểu hiệu cho quốc gia. Lá cờ vàng được thêm thắt, sửa đổi về sau để thành cờ Long Tinh (triều Nguyễn 1920-1945), cờ quẻ ly (chính phủ Trần Trọng Kim) và cuối cùng là cờ quẻ càn, hay lá cờ vàng ba sọc đỏ mà chúng ta có ngày nay, được dùng trong thời kỳ Quốc Gia Việt Nam (1949-1955) và Việt Nam Cộng Hoà (1955-1975). Xem như thế đủ hiểu rằng lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ của một dân tộc, thấm đẫm hồn thiêng của tổ quốc từ đời này qua đời khác. Ngày 30 tháng Tư năm 1975, lúc cả trăm ngàn người miền Nam bỏ chạy ra khỏi nước để trốn tránh một chế độ độc tài sắp áp đặt xuống phần đất phương nam, lá cờ vàng ba sọc đỏ cũng cùng mọi người đi tìm tự do. Lúc ấy, lá cờ vàng như vị thần hộ mệnh, đi theo đoàn người viễn xứ để bảo bọc, che chở họ, đồng thời giữ vững, hâm nóng ngọn lửa tự do dân chủ trong lòng họ. Trong lịch sử nhân loại từ trước đến nay, chưa có lá cờ dân tộc nào tồn tại dai dẳng và kiêu hùng nơi xứ người như lá cờ vàng ba sọc đỏ, tính đến nay đã hơn bốn mươi năm trời, và còn biết bao nhiêu năm tháng trước mặt nữa. Không những sống vững, sống mạnh trong các cộng đồng người Việt tự do khắp thế giới, lá cờ vàng ba sọc đỏ còn tiếp tục “sinh sôi nẩy nở” khắp nơi trên những phần đất tự do của các quốc gia sở tại.

 

covang3a

Hôi Nghị Quốc Tế Bandung, Indonesia, 2015

 

             Cách dây vài năm, như một phép lạ diệu kỳ, tại hội nghị quốc tế Bandung ở Indonesia vào tháng 4-2015, lá cờ vàng ba sọc đỏ lại hiên ngang sánh vai với các các lá quốc kỳ khác với tư cách là lá cờ của một quốc gia hội viên. Đây là một ngoại lệ vô tiền khoáng hậu! Trên nguyên tắc, một hội nghị quốc tế không bị ràng buộc phải trưng một lá cờ của một quốc gia không tồn tại về mặt pháp lý. Ấy vậy mà hội nghị Bandung đã làm một việc mà ngay cả những nguyên tắc ngoại giao quốc tế cũng khó mà giải thích.  Riêng ở Hoa Kỳ, đã có khoảng 14 tiểu bang, 7 quận hạt và 88 thành phố chính thức công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ chính thức đại diện cho cộng đồng người Việt tự do sinh sống nơi đây. Hằng năm, vào các dịp lễ lạt cổ truyền hay sinh hoạt cộng đồng, lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn phất phới tung bay như góp vui với mọi người. Nơi tôi ở—Little Saigon, Orange County—cứ mỗi độ 30 tháng Tư về là các đường phố chính rợp bóng cờ vàng, xen lẫn với lá cờ của nước sở tại. Mỗi buổi sáng trong mùa tháng Tư Đen, vừa lái xe ra khỏi cổng tôi đã thấy những lá cờ vàng tung bay bên lá cờ sao Hoa Kỳ. Tôi vừa vui vừa buồn khi nhìn những lá cờ thân yêu ấy. Hy vọng một ngày nào đó không xa, khi đất nước Việt Nam trở thành một quốc gia tự do, dân chủ, toàn dân sẽ đồng lòng chọn lá cờ vàng truyền thống để làm biểu tượng cho tinh thần bất khuất ngàn năm của người Việt Nam.

          saigon xua 2                 Saigon_Old2

 

          THÀNH PHỐ KHÔNG CHỊU CHẾT! Thành phố Sài Gòn, cho dẫu trong hiện tại có phải “mang tên xác người”, cũng như lá cờ vàng ba sọc đỏ, là một “thành phố không chịu chết”. Bốn mươi năm đã trôi qua, nhưng tên gọi Sài Gòn không bao giờ mất đi trên môi những người Việt xa xứ. Không những vậy mà ngay tại Sài Gòn, tên gọi này cũng không những không mai một đi mà còn tồn tại song song với cái tên xác người. Đối với người dân thành phố, người ta vẫn nói “mưa Sài Gòn, nắng Sài Gòn” chẳng hạn—nghe vừa thân mật lại vừa thơ mộng— chứ chẳng ai biết “nắng mưa thành phố hồ chí minh” là cái chi chi! Một buổi sáng thức dậy trong lòng thành phố, bạn có thể nghe tiếng người cười nói lao xao ngoài ngõ, tiếng xe cộ, tiếng kèn xe, mùi khói xe lẫn với mùi cà-phê và hủ tiếu. Và bạn bảo tất cả những âm thanh cùng những mùi khác nhau trộn lẫn lại đó là một cái gì rất đặc trưng của thành phố này, rất “Sài Gòn”; chứ chẳng có ma nào nói, tất cả những điều đó là một cái gì rất “thành phố hồ chí minh”! Loại ngôn ngữ khiên cưỡng đó tự nó đã sượng sùng, ngượng nghịu nên không bao giờ có dịp thoát ra khỏi đôi môi người nói. Thêm nữa, không biết bao nhiêu công ty, cửa tiệm, nhãn hiệu hàng hoá ngày nay vẫn còn ưu ái mang tên Sài Gòn trong thành phố (bị xui xẻo) mang tên “người… chết” này! Thành phố có thể đang tạm mất tên nhưng cái hồn Sài Gòn vẫn còn đó, trong từng con người đang thở mỗi ngày ở đó, chờ dịp thực sự hồi sinh.

 

TR_LittleSaigon3  

  exit saigon           san francisco

 

Ở hải ngoại, Sài Gòn không những không chết đi trong lòng những người dân Việt lưu vong mà còn thoát thai sống lại thành những Sài Gòn mới trên đất nước tự do xứ người. Đây là những “Little Saigon” đã mọc lên ở những nơi có đông người Việt cư ngụ. Những nơi có tên Little Saigon chính thức có thể kể đến là ở Westminster (California), San Jose (California), San Francisco (California), Sacramento (California), San Diego (California), Houston (Texas), Vancouver (Canada), v.v. Đó là chưa kể những khu Little Saigon mang tên chưa chính thức khắp nơi trên Hoa Kỳ và thế giới mà sinh hoạt thương mại, văn hoá, chính trị cũng rộn rịp không kém gì những Little Saigon chính thức. Những bảng tên đường tiếng Việt nhắc nhở đến Sài Gòn có thể tìm thấy ở Houston (Texas) hay Little Saigon (California), hay những bảng chỉ đường vào Little Saigon trên các xa lộ ở Californis đã đánh dấu sự “sinh sôi nẩy nở” của Sài Gòn không khác chi trường hợp của lá cờ vàng ba sọc đỏ. Sài Gòn không những không chết đi mà còn tiếp tục nở rộ ra như những bông hoa biểu hiện cho dân chủ, nhân quyền trên khắp các vùng đất tự do trên thế giới. Một mai không xa, những Sài Gòn nhỏ này sẽ sum vầy cùng Sài Gòn lớn, như những dòng sông hân hoan đổ về biển rộng, cùng hát bài “Hội trùng dương” trong ngày hội lớn của dân tộc. 

    thuyền nhân

 

      hà nội biểu tình        co-vang-San_Jose_Tet_parade,_2009

 

           VÀ NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CHỊU CHẾT! Những người không chịu chết này là những người phải bỏ xứ ra đi vì không chấp nhận sống dưới một chế độ phi nhân, độc tài. Về chủ nghĩa cộng sản, rất nhiều danh nhân thế giới đã phát biểu những danh ngôn vô cùng sâu sắc, thấm thía. Tuy nhiên, không gì hay bằng nghe chính những người đã từng là cộng sản nói về nó. Một trong những người này là ông Boris Yeltsin, vị tổng thống đầu tiên của nước Nga hậu cộng sản (nhiệm kỳ 1991-1999). Ông Yeltsin đã từng là đảng viên Đảng Cộng Sản Nga trong 29 năm (1961-1990) và từng giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền Xô-viết. Vào năm 1989, một trong những năm cuối cùng của Liên Bang Xô-viết, ông Yeltsin thực hiện một chuyến công du sang Hoa Kỳ. Trên danh nghĩa, lúc này ông vẫn còn là một người cộng sản. Trong chuyến công du, ông phát biểu như sau, do tạp chí The Independent của Anh tường thuật lại: “Let’s not talk about communism. Communism was just an idea, just pie in the sky”. (Xin tạm dịch: “Đừng nhắc đến chủ nghĩa cộng sản nữa. Chủ nghĩa cộng sản chỉ là một ý tưởng, chỉ là một cái bánh vẽ trên nền trời”). Những người trốn chạy cộng sản—hay trốn chạy “cái bánh vẽ” này—ở tất cả những nước đã từng bị hiểm hoạ này, kể cả ở Việt Nam, giờ đây đã trở thành những người không chịu chết. Nói như vậy là nói với một ý nghĩa có tính cách biểu tượng. 

Người viết muốn nhấn mạnh rằng đa số những người tị nạn cộng sản không bao giờ quên được vì sao họ đã trốn chạy. Khi đã an thân ở chốn tự do, họ không chịu chấp nhận một lối sống mòn, sống cho qua ngày đoạn tháng, cho hết kiếp lưu vong. Sống như vậy cũng không khác gì đã chết. Vì vậy, đa số vẫn hướng lòng về quê hương, vẫn xót xa khi thấy đồng bào trong nước bị đàn áp dưới chế độ của bạo quyền. Mỗi người trong họ vẫn làm một điều gì đó, bằng cách này hay cách khác, để góp phần vào công cuộc tranh đấu chung của dân tộc cho một ngày mai không còn hiểm hoạ cộng sản trên quê hương. Cũng cần phải thấy rằng những người “không chịu chết” này là những người “không sợ chết” khi họ đã liều mình ra khơi, nơi mạng sống chỉ như sợi chỉ mành treo chuông. Ngày nay, những người không chịu chết này không chỉ là bậc ông, cha, chú của thế hệ lưu vong đầu tiên mà còn là cả thế hệ thanh niên gốc Việt sinh ra và lớn lên tại hải ngoại. Thế hệ trẻ này không cam tâm, ích kỷ hưởng thụ cuộc sống tự do dân chủ mà mình đã may mắn có từ được lúc ra đời. Họ đã cùng đứng lên, sát cánh với cha ông đấu tranh cho tự do, dân chủ ở quê nhà bằng nhiều hình thức khác nhau. 

Ở Việt Nam, ngoài thiểu số được hưởng đặc quyền đặc lợi, sẵn sàng làm lơ trước đau khổ của đồng bào, hay thậm chí đàn áp, hành hung người dân vô tội, đa số người Việt Nam cũng là những người không chịu chết, không chịu thua trước cường quyền. Họ là những nhà dân chủ sẵn sàng hy sinh sự an toàn của bản thân và gia đình để cất lên tiếng nói phản đối những điều trái tai gai mắt do chế độ gây ra trong xã hội. Họ là những người dân oan bị tước đoạt nhà cửa, đất đai, dám chấp nhận cảnh lấy trứng chọi đá để bảo vệ tài sản mồ hôi nước mắt của mình. Họ là tất cả những người nghe tiếng gọi của dòng máu Lạc Hồng trong huyết quản, đặc biệt là thế hệ trẻ, dám đứng lên để cất tiếng đòi lại những phần đất nước máu thịt của tổ quốc đang bị bọn cầm quyền “hèn với giặc, ác với dân” nhượng bộ cho chủ nghĩa bành trướng Đại Hán từ mấy ngàn năm nay.

Bốn mươi lăm năm đã trôi qua, kể từ khi miền Nam lọt vào tay bạo quyền cộng sản. Đó là một thời gian dài đối với một đời người ngắn ngủi, nhưng lại chỉ như là một khoảnh khắc phù du trong lịch sử, nhất là lịch sử của một đất nước có gần năm ngàn năm văn hiến. Lá cờ không chịu chết—thành phố không chịu chết—những người không chịu chết, tất cả những thực thể không chịu chết đó chính là biểu hiện của một đất nước không chịu chết. Đất nước chúng ta như đang trải qua một căn bệnh ngặt nghèo. Nhất định đất nước sẽ hồi phục một ngày không xa. Với niềm tin vào lịch sử, vào thực tế và vào tinh thần bất khuất của mỗi người dân Việt, chúng ta có quyền chờ đón một ngày đất Việt sẽ lại được thái bình thịnh trị như xưa.


Trần C. Trí

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.