Hôm nay,  

Con Mèo Của Anh Sướng Nhất Trên Đời

18/05/202013:10:00(Xem: 3097)

(Najlepiej w życiu ma twój kot)

Untitled
Wisława Szymborska và Kornel Filipowicz


Con mèo của anh sướng nhất trên đời” là tập thư từ dày gần 400 trang của thi sĩ Wisława Szymborska và Kornel Filipowicz – nhà văn, nhà thơ, người yêu của bà từ năm 1967 cho đến tận khi ông qua đời năm 1990. Họ không cưới nhau, chưa từng sống chung với nhau dưới một mái nhà, không có con với nhau, nhưng tình yêu của họ rất đặc biệt. Những dòng họ viết cho nhau hóm hỉnh, cảm động, tha thiết, chân thật, là những hình thái đẹp nhất của ngôn từ. Và không chỉ là ngôn từ, đó còn là những hình vẽ, những bức cắt dán, những tấm bưu thiếp đầy sáng tạo và u-mua mà họ gửi cho nhau.
Xin trích dịch một số bức thư trong khoảng thời gian 1 năm họ mới quen và yêu nhau, trong đó có 5 tháng Wisława Szymborska phải điều trị tại viện điều dưỡng ở Zakopane cách thành phố Kraków của họ hơn 100 km. Thời gian này họ viết thư và gọi điện cho nhau gần như hàng ngày. “Con mèo của anh sướng nhất trên đời”, từ Zakopane, Szymborska đã viết cho Filipowicz đầy nhớ nhung như thế. Hơn 20 năm sau, khi Filipowicz qua đời, Szymborska viết bài thơ “Con mèo trong căn hộ vắng”, một trong những thi phẩm nổi tiếng nhất của bà.
(Thái Linh)

***

Moskva, 3.9.1967
Wisława yêu quí,
Anh đã giữ lời hứa đến thăm mộ Chekhov. Vì không có hoa nên anh đặt lên đó 2 chiếc lá hạt dẻ, của em và của anh.
Khoảng ngày 26 chắc Borisov sẽ đến Kraków. Anh đã cho anh ấy số điện thoại của em; nếu em muốn và có thời gian thì hẹn với anh ấy nhé.
Ôm em thật chặt.
Kornel

***
Jałta, 14.9.1967
Wisława yêu quý,
Hóa ra*, ngược lại với điều Tadeusz R.1 vẫn khăng khăng, không phải tất cả những người siêu việt đều thấp. Ví dụ Anton Pavlovich cao 1m86. Anh rất hài lòng báo cho em tin này.
Kornel Filipowicz của em (1m82)
ôm Eva2 và Adam3 nhé
*(anh đến thăm bảo tàng Chekhov, ở ngay Jałta)
***
10.07.1968
(…)
Em rất vui vì anh để ria. Chắc nó sẽ đẹp như của ngài Tulczyński4. Em xin anh hãy để nguyên nó cho đến khi trở về, gần đây chắc em xứng đáng được nhìn thấy một thứ chói lòa như thế. Ở đây em nghĩ đến anh luôn và yêu anh không ngừng (chỉ có giải lao để ăn trưa). Em rất muốn anh lại khỏe mạnh và vui vẻ. Tiếng con mèo của anh kêu giữa đêm khuya bay đến tận phố nhà em. Rõ là nó chẳng làm gì chỉ biết nhớ nhung, mà anh đã dặn nó làm việc rồi đấy, chắc lại viết một tiểu thuyết mới tuyệt đẹp. Em đã đọc truyện ngắn mới của nó trên “Tuần báo phổ thông”. Rất hay. Quả là anh có được nhiều niềm vui từ sinh vật dễ thương ấy. Ở đây em chẳng có ai như thế, các chú lùn từ chối chẳng chịu giúp đỡ gì vì trời nóng nực quá, mà nói thật họ chỉ là những nhà văn xoàng.

1 hoặc 2.8.1968
Kornel thân yêu! Phòng 119 của em trông như thế này. Một cửa dẫn đến nhà tắm, cửa kia mở thẳng ra phố Krupówka. Em yêu anh, nhưng anh đừng để ý lắm, cũng đừng đặc biệt tin tưởng vào điều này. Cùng lắm anh hãy cân nhắc nó khi gặp cô Katzowna. 5 Ở đây có rất nhiều bạn gái của Gienia6, thậm chí có vài chị em sinh đôi của cô ta. Có mặt họ, em cảm thấy mình chẳng còn sinh lực và nghĩa lí. Vì họ mới có nghĩa lí.
Hãy viết cho em anh làm gì, hoặc nếu anh thích thì hãy viết khô khan và thưa thớt thôi. Và anh hãy tránh xa em ra (thế này có đúng tiếng Ba Lan không nhỉ?).
Em không biết trên thế giới đang xảy ra chuyện gì, nhưng em nghi là không hay?
Hôn anh với đủ các nguyên tắc vệ sinh – W.
(viết trên bưu thiếp, mặt trước là ảnh căn phòng của giáo hoàng trong Thánh điện Vatican)

***

14.8.1968
Kornel ơi!
Đây là một đống câu hỏi không cho em ngủ yên:
  1. Anh có bao nhiêu loại rượu vodka trong nhà?
  2. Cô Gienia hàng tuần đến đây thăm chị gái được ai tặng cái quần bó đỏ thế?
  3. Vì sao anh nghĩ ra chừng ấy thứ công việc khó xác định như thế, khi trên núi không có ai chở cây?
  4. Vì sao khắp cả Zakopane này không có ai giống anh?
  5. Bà Salomea7 nhà anh vẫn nặng tai?
  6. Khi nào thì rốt cuộc anh sẽ viết xong chương sáu của tiểu thuyết nhan đề “Anh rể đang yêu”?
  7. Vì sao em cảm thấy mình mới ở bên nhau có 1 tháng, còn bây giờ xa nhau cả năm trời rồi?
  8. Cô sinh viên ngữ văn nào lại đang viết luận văn về anh? – và vì sao không bao giờ là cậu sinh viên?
  9. Hôm nay anh mặc chiếc áo sơ mi trắng tinh ấy đi đâu thế, hở?
  10. Khi em trở về, anh sẽ vẫn gọi em là Wisława chứ?
W.
***

14/15.8.1968
Wisława thân yêu!
Mãi đến tối anh mới đọc được thư em, có lẽ vì hơi sợ trong thư có gì không vui, nhưng nhiều khả năng nhất là vì ban ngày không có lúc nào thích hợp. Trong thư không có gì không vui hết, toàn những điều dễ chịu (trừ một thông tin tuy không phải là không vui nhưng khiến anh không thể thờ ơ). Anh đã từng nói với em rằng anh thấy thật kỳ lạ vì các anh chàng cũ của em không chịu rời xa mà cứ xoay quanh em – như những vệ tinh... Anh muốn tin và anh tin rằng với em họ đã là các cơ thể* trung tính – nhưng chính em cũng hiểu đấy...

Em đừng buồn, điều đó lãng xẹt. Hãy coi 2 tháng phải xa cách còn lại đơn giản như chuyến nghỉ ngơi. Em cần nghỉ ngơi – em đã làm rất nhiều việc, nhiều hơn là em tự ý thức được. (Và nhiều hơn những người được gọi là phê bình gia tưởng tượng ra. Mấy tiếng trước anh bỏ thư vào thùng thư “Đương đại”, có thể em sẽ nhận được thư anh nhanh hơn thư của Adam). Anh chờ em. Tuần sau nhất định anh sẽ đến – khi nào thì anh sẽ viết cho em sau. Tuần này (thứ sáu hoặc thứ bảy) anh phải gặp cô biên tập viên của tạp chí “Độc giả” đi nghỉ về qua Kraków. Anh cũng phải đến bác sĩ của anh, ông ấy mãi đến ngày 16 mới đi nghỉ về. Vậy nên bây giờ anh không về quê nữa, để đến tháng Chín (trước khi đi Zakopane).(...)
*dưới khía cạnh nào đó

23.8.1968
Wisława thân yêu! Tấm thiếp này viết ở Zakopane, lẽ ra phải được viết xong và bỏ vào thùng thư trước khi xe buýt chạy – nhưng anh không kịp. Hôm nay trời mưa từ sáng. Anh nghĩ về em và về những gì xảy ra trên thế giới8 (thay vì nghĩ về việc sửa bản thảo mà anh phải nộp vài giờ tới). Tệ hơn nữa – anh quên không thỏa thuận với em về một chuyện, khá quan trọng. Nhưng anh nghĩ nếu là chuyện đó thì chúng mình có ý kiến gần giống nhau.
Hôn em.
K.
***

27.8.1968
Em yêu!
Anh cũng buồn, ngoài ra còn xấu hổ, thấy đáng tiếc và nói chung anh đang chịu đựng một loạt những cảm xúc tồi tệ, nhưng như em có thể đoán, chúng không có chút gì liên quan đến em cũng như anh! Những chuyện này lại thêm các khó khăn khác nữa. Ví dụ việc sửa bản thảo: họ nói với anh rằng những thay đổi* mà anh muốn cho vào một số truyện ngắn phải có đúng số điểm như thế, không thêm không bớt. Ngoài ra anh đã nhận được tín hiệu là hai truyện ngắn (từ lần xuất bản thứ nhất) sẽ bị người kiểm duyệt đặt vấn đề. (Một truyện vì bài bài Do Thái, truyện kia vì giọng điệu bài – bài Séc...).
Anh lo sợ, Wisława ạ, rằng chúng ta sẽ bị cầm tù trong khối của mình và cắt đứt với thế giới trong thời gian dài, chưa nói đến chuyện họ sẽ bịt miệng chúng ta. Trừ khi có người can đảm thú nhận rằng hắn ta đã bị xúi giục ghê gớm, điều mà ở Pentagon người ta sẽ vừa phủi tay và vừa cười khẩy...
Chúng mình, Wisława ơi, phải ở gần nhau hơn, mình sẽ nhẹ nhàng và chắc chắn là vui vẻ hơn. Hôn em, em yêu, thật nhiều – Kornel.
*về phong cách

P.S. Mrożek9 phản đối trên “Le Monde”!

10/11.9.1968
Wisława em yêu!
Những bức thư của em tuyệt vời như những tác phẩm đẹp*: chân thực, nhẹ nhàng, hóm hỉnh, vô song. Phải chăng chúng cũng cất giấu những tình cảm chân thực và vô song? Hãy cho phép anh tin như thế!
Không đùa đâu. Văn viết thư của em rất tuyệt và anh thấy những lời phàn nàn của em về tình trạng trí tuệ tệ hại hoàn toàn không có cơ sở. Với anh thì tệ hơn. Hôm nay anh ép mình trở lại với những thứ bắt đầu từ trước khi bị ốm – hiệu quả thật thảm hại. Anh chẳng làm được gì cả, lại đi nằm, đọc một đoạn trong Kẻ vô gia cư của Conrad (Conrad mà anh ít biết nhất) không mấy thích thú, sau đó anh cầm lấy cuốn Sa đọa của Camus, hóa ra anh đã đọc hồi trước, khá gai góc (trái ngược với những gì các phê bình gia nói nhân khi bình luận về Kẻ phản diện – mà anh ta cũng không việc gì phải xấu hổ). Trái ngược với Dịch hạch vốn là một cái gì đó lớn hơn, Sa đọa – là một luận thuyết triết học thuần khiết**. Ngày mai anh sẽ đọc Exupéry, những truyện ngắn anh chưa biết. Cái này chắc sẽ hay nhất. Nhưng hay nhất trong tất cả những thứ này – là Em, người cho đến gần đây anh mới chỉ được nhìn thấy từ xa...
Ngày mai anh sẽ đi ra ngoài thế giới một chút – đến bác sĩ và thợ cắt tóc. Tiếc là đã qua cái thời hai nghề này thường do một con người thông minh làm, nếu là thời ấy thì anh sẽ không phải xếp hàng chờ hai lần.
Hôn em yêu – K.
nhiệt độ – 36,8
nhịp tim – chậm
cảm giác – tàm tạm

P.S. Gửi cho anh cái trắc nghiệm về tình yêu đó đi! Anh sẽ trả lời tất cả các câu hỏi!
* hoặc ngược lại: đẹp như những tác phẩm tuyệt vời
** hơi quá so với cái gu nham nhở của anh.


16.9.1968
Kornel,
Em rất yêu anh*. Anh đừng lạm dụng điện thoại khi nghi ngờ về điều này! Qua điện thoại em khó lòng chứng minh được điều gì. Nhưng em rất lo** vì cả qua thư em cũng không chứng minh được. Ai thì không biết, nhưng lẽ ra chính em phải là người bị vò xé bởi những mối nghi ngờ tồi tệ nhất – ít nhất cũng là những nỗi băn khoăn. Và em đang bị vò xé, nhưng em âm thầm đau khổ và cho anh thời gian để cắt đứt hết những mối quan hệ thiếu chín chắn, để anh có thể vui vẻ trong khi em vắng mặt***. Hẳn anh có thể đoán ra, em lại viết cho anh sau cuộc nói chuyện điện thoại (vào ngày thứ Hai)****, khi em lại thấy buồn. Hôm nay cô y tá đưa nhầm cho em cả gam Streptomycin***** và bây giờ em đau đầu với mông phải khủng khiếp. Lần đầu tiên trong đời em thấy hiển lộ mối liên hệ bí ẩn giữa hai bộ phận cơ thể này. Ngoài ra, những ngọn núi trông rất gần, báo hiệu gió nồm và lại mưa******. Nếu không ngủ được, em thử tưởng tượng sẽ tuyệt vời thế nào khi em được ở bên anh trong ngày lễ đặt tên!
Hôn anh*******-
Wisława
* SỰ THẬT
** sự thật
*** sự thật hơi cường điệu
**** sự thật
*****sự thật
****** sự thật đã được khoa học chứng minh
******* rất tiếc, không phải sự thật!...

5.10.1968
Kornel anh yêu! Con mèo của anh sướng nhất trên đời, vì được ở bên anh. Em đã nói với anh điều này qua điện thoại, nhưng em nhắc lại bằng văn bản. Em đang đọc một cuốn sách dày về núi lửa. Thật tiếc là hóa ra một núi lửa như Giewont không có chút cơ hội nào để có lúc bùng nổ (điều sẽ khiến người ta phải chuyển viện điều dưỡng về Kraków). Em cũng chẳng thể mơ mộng về lũ lụt, vì ở đây nước nói chung rất kém. Chỉ còn hỏa hoạn, nhưng làm sao chắc được khi đó người ta sẽ trả em về nhà? Em sẽ phải tiếp tục ở lại đây và chữa trị, việc em hết lòng muốn thuyết phục anh. Anh đừng xem nhẹ lời mời của ông Szczerski (nhất là khi em còn luôn băn khoăn không biết mối quan hệ thân thiết với em có gây hại cho anh chút nào không? Anh yêu, em không biết sẽ phải chịu đựng điều này thế nào...). Hôn anh RẤT NHIỀU. - Wisława.

13! 10.1968
Kornel anh yêu! Đang là buổi sáng chủ nhật đẹp tuyệt. Đẹp như buổi sáng ngày anh đến thăm phải thế. Nhưng em sợ là sẽ khác, vì gần đây mình xui xẻo. Đã hai ngày em không viết bởi em có vài bức thư nặng nề phải viết – nặng nề vì em phải chối bớt những cuộc viếng thăm của những người khá dễ thương, nhưng em cần khách khứa ở đây làm quái gì? Em chịu căn bệnh cũng tạm được, nhưng vai trò người bệnh vượt quá sức chịu đựng của em. Ngay cả với những người thân nhất (bao gồm cả anh) em cũng cảm thấy bối rối và hơi xấu hổ, nữa là với các đồng nghiệp ở tòa soạn hay với cô bạn ở Wrocław biết tin từ đâu đó và nhất định sẽ đến thăm. (…) Nhưng em đang đọc một cuốn sách rất hay, Thư tình của Goethe do Maciąg gửi cho. Em cứ tưởng đấy sẽ là những nỗi xúc động có phần tư liệu cũ kỹ, nhiều phong cách hơn là nội dung, vậy mà ở đó lại có biết bao nhiêu chất liệu sống động! Anh nên đọc đi. Anh chàng này thật được số phận ban phước, có một cuộc sống mà chúng ta chưa bao giờ có và sẽ không bao giờ có. Toàn bộ cống hiến của anh ta chỉ là biết tận dụng nó sao cho tốt. Anh yêu, em đợi anh như mọi khi – và tuần này càng nhiều hơn, vì có những hi vọng chắc chắn.
Hôn anh – Wisława

***
19.10.1968
Em yêu!
Thêm một cuộc gặp với em – siêu thực, như trong mơ! Nhưng con người cấu tạo từ xương, thịt và các dây thần kinh cần thiết cho những đau đớn thể xác. Không phải anh buồn lòng đâu, Wisława, chính là nỗi thương nhớ bắt anh viết ra những thứ chẳng mấy khôn ngoan thế này!
Anh đi xem triển lãm của các họa sĩ Pháp với Eva và Adam. Anh cứ tưởng ít nhất sẽ có thể gửi được cho em catalog – đáng tiếc là đã bán hết sạch từ lâu. Hội họa của họ thú vị, mặc dù với người Pháp thì dường như hơi chìm xuống, như thể nó quá lịch sự và đã chớm đi vào kinh điển. Rất nhiều cái tên anh hoàn toàn không biết. Gần như chẳng có đề nghị nào mới mẻ, tất cả dường như đều liên quan đến cái gì đó đã có từ hôm qua, hôm kia. Chỉ thú vị là hoàn toàn không thấy pop-art, các họa sĩ Pháp không chấp nhận nó. Ngược lại, có rất nhiều ám chỉ (nhưng nên thơ) về người, vật và phong cảnh. Bức tranh lớn của Vasarely10 bảo hộ toàn bộ triển lãm – là tranh thị giác, đó là một họa sĩ rất chắc tay, nhưng anh thích anh ấy như họa sĩ trừu tượng của 10 năm trước hơn.

Anh thấy trong mắt Eva và Adam nỗi thất vọng – có thể họ trông đợi điều gì đó hiệu quả hơn chăng? Trong khi đó, với nghệ thuật thì – em cũng biết rồi đấy.
(…)
Hai chiếc lá11
Hôn em
Kornel
***

31.10.1968
Kornel – đây là em
trong vai tấm thảm dưới giường anh!
(kèm theo hình tấm thảm cắt từ báo)

1.11.1968
Anh yêu!
Đây là cái chân thứ nhất của em đang bước về nhà. Khi em gửi cho anh cái chân thứ hai nghĩa là em sẽ trở về bất khả vãn hồi! Và chắc điều đó sắp xảy ra!
Em của anh
W.
(trên tờ giấy có hình một cái chân phụ nữ cắt ra từ báo)
***

5.11.1968
Em yêu, hôm qua anh nhận được cái chân xinh đẹp của em, ôi, nhưng anh làm gì với một cái chân? Anh chờ cái thứ hai! Còn khi đã nhận được cái thứ hai, anh sẽ chờ phần còn lại của em. Thời gian trôi thật nhanh. Không biết em thì sao, chứ anh thì chẳng kịp làm gì cả thời gian đã biến mất rồi...
Chỗ này có điện thoại của em gọi tới. Lần này giọng em rất dễ thương, không gây ra chút băn khoăn nghi ngờ nào cả...

12.11.1968
Zakopane
Kornel anh yêu!
Hôm nay là thứ Ba, nghĩa là ngày anh sẽ có những trải nghiệm khó khăn. Nhưng biết làm sao, không biết đến bệnh viện, anh không thể hoàn toàn trở thành một con người đương đại. Đây không phải lí thuyết của em, mà là của anh bạn Maciąg, anh ấy khẳng định rằng con người thế kỷ XX cần có ba trải nghiệm: 1) nhà tù, 2) li hôn, 3) bệnh viện, thì mới đạt được cái gọi là ý thức đầy đủ. Kornel, hôm qua em rất vui khi nói chuyện với anh! Khi nghĩ rằng mấy ngày tới không liên lạc được với anh, em thấy ngực trái mình trĩu nặng.
Cái nhà trong tờ giấy này là của anh. Đây là cái nhà thứ hai rồi nhé, lạy Chúa, anh đừng cho Gienia xem! Hôn anh vô biên – Wisława.
(mặt sau là hình minh họa màu một ngôi nhà có vườn cắt từ báo)

Chú thích:
1 Tadeusz Różewicz (1921-2014) - nhà thơ, nhà văn Ba Lan nổi tiếng, được đề cử Nobel văn chương, là bạn lâu năm của Filipowicz.
2 Eva Lipska – nhà thơ, bạn thân của Szymborska và Filipowicz
3 Adam Włodek (1922-1986) – nhà thơ, dịch giả, chồng cũ của Szymborska
4 Nhân vật tưởng tượng xuất hiện thường xuyên trong thư từ giữa W. Szymborska và K. Filipowicz
5J anina Katz (1939-2013) – nhà thơ, nhà phê bình, nhà văn viết tiểu thuyết. Khi nhắc đến Filipowicz là nhà văn mà bà đánh giá rất cao, bà viết “Không chút nghi ngờ, ông là người đàn ông đẹp nhất Kraków”.
6 Gienia - tình địch của Szymborska, là nhân vật tưởng tượng hay xuất hiện trong thư từ giữa bà và K. Filipowicz.
7 Bà giúp việc của Filipowicz
8 Filipowicz nói đến sự can thiệp của khối Hiệp ước Vác-sa-va vào Tiệp Khắc – đêm 20 rạng ngày 21.8 quân đội Liên Xô, Ba Lan, Hungaria, Bulgaria và Đông Đức tiến vào nước này để đàn áp quá trình tự do hóa thể chế kéo dài từ vài tháng trước.
9 Sławomir Mrożek – nhà văn, họa sĩ, nhà soạn kịch người Ba Lan khi đó đang ở nước ngoài đã đăng trên nhật báo Le Monde lời phản đối can thiệp vũ trang vào Tiệp Khắc, hậu quả là các tác phẩm của ông bị cấm xuất bản và trình diễn tại Ba Lan đến năm 1973.
10 Victor Vasarely (1906-1997) – một trong những đại diện chính của Op-art
11 Kèm theo thư là hai chiếc lá khô

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.