Hôm nay,  

Tiếng Gọi Của Lịch Sử

06/06/202016:43:00(Xem: 5436)

                                                  

 

            Sau công phu sáng, bước ra nhà bếp xé tờ lịch thì hiện ra hôm nay là ngày 6 tháng 6 năm 2020.

            Ngày 6 tháng 6, bỗng như que diêm nào bất ngờ bật lên trong ký ức tôi đã từ lâu lắng xuống.

            Tại sao hôm nay lại bật lên? Biết rằng băn khoăn cũng chẳng có câu trả lời, như mưa mới rạt rào đây mà giờ nắng đã lên rực rỡ. Muôn sự còn muôn thẳm sâu mà sự phán đoán ước lệ của suy tưởng vật lý chưa chạm tới được sự mầu nhiệm của tâm linh. Đủ duyên thì lộ, chưa đủ duyên thì ẩn. Chấp nhận vậy thôi.

            Ngày 6 tháng 6 năm 1944.

            Ngày có tên lịch sử là D-Day.

           
Hue Tran
Ngày lực lượng quân đội đồng minh đổ bộ lên bãi biển Omaha, tỉnh Normandie Pháp Quốc để ngăn chặn âm mưu thống trị toàn cầu của Đức Quốc Xã.

            Ngày D-Day lịch sử đó, tới nay vừa đúng 76 năm, hơn ¾ thế kỷ.

            Và với tôi, kẻ lang thang đặt chân tới địa danh lịch sử đó vào mùa hè năm 2000, tới nay vừa đúng 20 năm.

            20 năm trước, con dế mèn như tôi làm sao có thể phiêu lưu ký tới một nơi chốn lịch sử mà dù có nằm mơ cũng không mơ tới được.

            Số là, thời đó tôi còn quẩn quanh chốn bụi hồng, đi làm kiếm cơm nuôi thân và nuôi gia đình. Công việc kế toán trong văn phòng không khó nhọc chi, nên buổi tối, tôi ghi danh học thêm ngoại ngữ tại Cerritos College. Một, trong những môn học đó là Pháp ngữ vì tôi từng được phụ thân chỉ dạy những nét đặc thù phong phú của nền văn học này.

            Lớp Pháp ngữ tôi theo học do giáo sư Roland Bellugue hướng dẫn. Với quá “ngũ thập cổ lai hy”, có lẽ tôi là học sinh già nhất so với các bạn đồng học. Biết thế, tôi luôn cố gắng, siêng năng, không bỏ một buổi nào trong suốt 3 khóa học. Trước khi bế giảng khóa thứ ba, đó là mùa hè năm 2000, giáo sư Roland Bellugue báo tin mừng là hè năm nay sẽ có chương trình gặp gỡ, trao đổi kiến thức giữa các sinh viên từ khắp nơi, quy tụ về đại học xá tại Paris, trọn một tháng ăn, ở, tại Cité Universitaire. Thầy cho biết, ai muốn tham dự phải ghi danh sớm, và lệ phí không đến nỗi “hết hồn” như tôi tưởng!

            Đúng thời gian đó, tôi vừa đủ tuổi để có thể “về hưu non” dù bạn bè đều cản là còn sức khỏe, làm tiếp đi, sau này tiền hưu nhiều hơn. Ấy thế mà tôi can đảm “Nhiều để làm gì?”

            Ôi, còn đợi gì nữa! Nộp đơn về hưu ngay. Và ghi danh để có mặt trong nhóm 42 sinh viên mọi quốc tịch mà thầy Roland Bellugue sẽ hướng dẫn qua Pháp.

            Chương trình sẽ học văn học sử buổi sáng, ở đại học Sorbonne với các giáo sư của đại học này; buổi chiều giáo sư phụ trách nhóm nào sẽ hướng dẫn nhóm đó tham quan Paris và những vùng phụ cận. Riêng 3 ngày cuối tuần, mỗi nhóm sẽ tự chọn, tham quan xa hơn, tùy quan điểm của giáo sư hướng dẫn và sinh viên trong nhóm.

            Một, trong những cuối tuần rời Paris 3 ngày, chúng tôi đã được thầy Roland Bellugue cho cơ hội ngàn năm một thuở, là hướng về Normandie, thăm bãi biển Omaha mà ngày D-Day lịch sử năm 1944 hàng trăm ngàn quân đội đồng minh đã đổ bộ cho nền Tự Do Nhân Bản của thế giới.

       Hôm đó, trời bất ngờ đổ mưa tầm tã. Đa số chúng tôi không chuẩn bị đủ áo ấm. Tới Caen, cách bãi biển Omaha không xa, trời ngớt mưa nhưng gió và mây xám vẫn vần vũ. Chúng tôi được ghé vào bảo tàng viện ở Caen để chờ trời quang đãng hơn, và cũng là dịp thăm nơi trưng bày và lưu giữ những hình ảnh về cuộc đổ bộ vĩ đại của quân đội đồng minh ngày 6 tháng 6 năm 1944.

            Tại đây, tôi và các bạn cùng nhóm đều mua nhiều loại postcard về ngày lịch sử đó.

            Chúng tôi chỉ dừng ở Caen khoảng 2 tiếng đồng hồ, rồi lại lên xe bus để tới thăm nghĩa trang quân đội Mỹ ở bãi biển Omaha. Chính nơi đây, hơn nửa thế kỷ trước, rạng sáng ngày 6 tháng 6 năm 1944, khoảng 120 ngàn quân nhân đồng minh và hơn 20 ngàn chiến xa đã đồng loạt đổ bộ tại 5 địa điểm đã chọn sẵn.

           
Hue Tran 02
Con đường dẫn tới địa danh lịch sử đó là làng Vierville, ngôi làng nhỏ với những cánh đồng cỏ thả bò, cừu, những mái nhà thấp, những đền thờ rêu phong, nhưng trên tinh thần thì đây chính là linh hồn Normandie vì làng Vierville đã đi vào lịch sử thế giới cùng với bãi biển máu Omaha.

            Khi xuống xe bus ở trước nghĩa trang, trời lại mưa nhẹ hạt nên tôi chưa vội chụp hình, chỉ kiểm lại xem máy còn bao nhiêu phim. Nhìn thấy con số 26, tôi yên trí đây là cuộn phim 36 tấm.

            Rồi mưa cũng ngưng và trời đã sáng sủa hơn.

            Đứng trước tượng đài, nơi vinh danh những người đã chết cho Tự Do, tôi giơ máy lên, bấm một tấm. Đối diện tượng đài là một cái hồ lớn, với các loại hoa đang nở. Cuối hồ là nghĩa trang quân nhân Hoa Kỳ với 172 mẫu trải cỏ xanh ngắt mênh mông, trên đó 9,386 cây Thánh Giá trắng toát khắc tên những người đã được an táng và 307 mộ bia vô danh.

Tôi lại giơ máy lên, bấm một tấm, với lòng trân trọng người xưa.

            Dọc theo nghĩa trang này là bãi biển Omaha nơi bao người đã ngã gục trước những họng đại bác của Đức Quốc Xã!

            Tôi bỗng cảm thấy cực kỳ rung động khi nhận biết mình đang đứng trên nền đất lịch sử thế giới. Để cảm nhận đầy đủ, tôi đã cúi xuống, tháo giầy.

Khi đôi chân trần vừa chạm trên nền đất lạnh thì trời bỗng nổi gió lớn. Gió lộng ào ào như cơn lốc bất chợt từ đâu tới. Mọi người vội vã chạt rạt vào trong. Tôi nghe các bạn gọi tôi cùng chạy nhưng tôi không bước nổi! Hình như có ai đang giữ tôi lại. Không những không chạy vào, tôi còn bình tĩnh nhắm mắt lại, chờ đợi.

            Lúc đó, tôi chỉ cảm thấy mình nên đứng yên, chờ đợi, mà không biết là chờ đợi cái gì!

            Gió vẫn hú từng cơn, nhưng tôi không sợ hãi. Hình như có nhiều người xung quanh đang xô đẩy nhau. Nhiều ngôn ngữ trộn lẫn trong tiếng gió hú. Gió càng lớn, người càng đông, ngôn ngữ càng đầy … Tới một lúc, tôi nghe được tiếng thúc giục rộn rã, rất rõ ràng, lại như có ai đang phiên dịch trực tiếp cho tôi: “Tiến lên! Tiến lên đi! Tự Do ở trước mặt kia! Hãy tiến lên! Hãy tiến lên đi! …”

            Một vòng tay ôm lấy tôi.

            Tôi mở choàng mắt ra.

            Đó là một người bạn cùng nhóm. Bạn vừa lắc mạnh vai tôi, vừa hỏi:

-         Are you OK?

-         Yes, I am

Nhưng không thể kìm giữ cảm xúc, tôi ôm mặt, òa khóc.

-         Are you sure you OK?

-         Yes,

-         Why are you crying?

-         I am really moved by their courage.

Người bạn gật gù, lẩm bẩm “It is sad!”

Tôi biết chắc rằng, cái cảm giác “sad” của bạn mình không thể nào so sánh  với cơn lốc mà tôi vừa trải qua. Cái cảm giác “sad” nhẹ nhàng quá, mà cơn lốc thì mãnh liệt vô cùng. Cơn lốc đó là tim óc, là máu xương của bất cứ ai còn biết khát khao Tự Do và Nhân Quyền khi hai thứ đó bị tước đoạt.

Trước khi rời bãi biển Omaha, trời đã chạng vạng tối. Tôi giơ máy, bấm một tấm. Không thấy ánh flash!  Nhìn vào máy thì hỡi ơi, phim vẫn nằm ở số 26, có nghĩa, đây là cuộn phim 24 tấm, số tăng tới 26 chỉ là 2 tấm phụ trội thông thường mà tôi đã xử dụng rồi!

Trời hỡi, trong chuyến đi, tôi đã chụp biết bao cuộn phim, sao lại có thể sơ sót đến thế! Sao lại có thể không có một tấm nào ở nơi đầy di tích lịch sử như thế này!

Rời Normandie, mọi người đều nao nức vì điểm tới là St. Malo, một thành phố cổ kính ven biển mà chúng tôi sẽ nghỉ đêm tại một khách sạn trong tỉnh.

Lấy phòng xong, ai cũng vội vã ra phố chơi. Chỉ có tôi ngồi lại, buồn bã giở xấp card postal mua ở Caen ra xem. Ngay tấm đầu tiên, trong một xấp lộn xộn đủ loại, là tấm card ghi lại 2 phần, phần trên, cảnh tượng đài trước hồ và phần dưới là cảnh nghĩa trang với những cột Thánh Giá trắng toát, lạnh lẽo.


Hue Tran 03
Đây chính là hai nơi tôi muốn lưu lại hình ảnh trong máy của mình trước khi lên xe bus, mà máy đã hết phim!

Một tấm cart postal, ghi đúng 2 cảnh này, không thêm, không bớt, không gì khác nữa!

Tôi buông cả xấp cart còn lại xuống mặt giường, không xem gì nữa! Đã quá đủ! Đã quá đủ rồi!

Có phải đây là tín hiệu cho tôi? Có phải những người năm xưa, trong một phút giây thiêng liêng mãnh liệt đã bắt gặp tấm lòng trân trọng nơi tôi?

Sự trùng hợp quá lạ lùng khiến tôi càng nhìn tấm card, càng tin như thế. Chính tấm carte postal này là thông điệp thầm lặng cho tôi biết rằng, cơn lốc bất chợt trên bãi biển Omaha và những tiếng thúc giục huyền bí không phải là ảo tưởng…

Khi đi qua cửa phòng tôi, thấy còn ánh đèn, giáo sư Roland Bellugue đã gõ nhẹ. Thầy luôn quan tâm tới những gì thấy hơi bất thường ở đám học sinh.

Tôi mở cửa, mời thầy vào, đưa thầy xem tấm postcard và nói với thầy về những xúc động đầy ắp trong tôi.

Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu thầy cho rằng tôi quá nhạy cảm mà tưởng như thế. Nhưng tôi đã sửng sốt khi thầy dịu dàng nhìn tôi, nói rằng, có thể, tôi đã vừa được “gặp” họ.

Tôi mở lớn mắt, khiến thầy phải bổ túc thêm điều thầy muốn chia sẻ, là những người năm xưa đó, cũng như vạn hữu này, không có sinh, cũng chẳng có diệt. Nếu nhìn bằng sự trong suốt của tâm linh, ta có thể thấy được sự sinh diệt, còn mất chỉ là chuyển hóa, Sự chuyển hóa không ngừng nên đủ duyên gặp đồng tâm thì giao cảm, qua sát na đó, lại nhẹ như mây, hòa vào vạn hữu, theo giòng chuyển hóa.

Ngay khi đó, tôi không hiểu rõ lời giáo sư Roland Bellugue vì tôi đã để cái lăng kính phân biệt của mình bận rộn với những ngạc nhiên và thắc mắc, rằng giáo sư là người Tây Phương, sao cũng mang những tư tưởng sâu sắc về Đông Phương như vậy? Nếu tôi không quá nông cạn và khờ khạo thì cơ duyên hôm đó, có thể tôi còn được giáo sư chia sẻ bao điều thâm thúy hơn là những đề tài giới hạn trong bài học ở trường lớp!

Từ Pháp Quốc dẫn đám học trò về lại Hoa Kỳ, giáo sư Roland Bellugue không còn đứng lớp nữa. Thầy bị ho nhiều và được chẩn bệnh là ung thư phổi, thời kỳ chót!

Tang lễ thầy có mặt hầu hết những học sinh đã được thầy tận tụy giảng dạy. Trước linh cữu thầy, tôi nghe đáy lòng mình thầm thổn thức “Thầy đang chuyển hóa! Thầy đang chuyển hóa thôi mà!”

Và một buổi chiều, ngồi dưới gốc bưởi trong vườn sau, tôi đã chợt mỉm cười với một bóng mây bay qua.

Vì đó có thể không chỉ là bóng mây.

Vì đó có thể là giáo sư Roland Bellugue.

Thầy sẽ ôm tập bài soạn bìa xanh quen thuộc, bước vào lớp, vui vẻ bắt đầu buổi học bằng câu “Bonjour tout le monde”.

76 năm lịch sử đã qua.

20 năm tình cờ lưu dấu.

Nhìn lại thì dường như:

“Không năm, không tháng, không ngày

Thời gian là hạt bụi bay vô thường”

 

Huệ Trân

(dăm sát na tưởng niệm)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.