Hôm nay,  

Đám Cưới Ngày Xưa

06/07/202018:23:00(Xem: 4694)

Thân tặng TY và BN

Hai mươi ba tháng Chạp. Hình như năm nay Tết sắp về mà không ai đợi chờ. Sài Gòn bây giờ đang sống trong những ngày mới mẻ. Một cái mới lạ lùng, khó chịu, vì thành phố và cả miền Nam đang ngột ngạt trong một nếp sống lạ lẫm sau ngày phần còn lại của đất nước đã lọt vào tay chính quyền miền Bắc. Người lớn nhìn nhau bằng cặp mắt lo âu, thì thầm trao đổi với nhau những lời lẽ bi quan trước viễn cảnh đen tối của dân tộc. Nhưng tuổi trẻ dường như không bị chi phối bởi thế giới rắc rối của người lớn. Giọng nói, tiếng cười của chúng vẫn ròn rã, trong vắt, không gợn chút ưu tư. Gần như hầu hết bầy trẻ trong cả cư xá đang rộn ràng chuẩn bị cho các tiết mục văn nghệ cuối năm. Thuý và Bảo cũng bị cuốn hút vào không khí tưng bừng đó. Năm nay, hai cô bé—một cô mười tuổi, còn cô kia mười hai—đang tíu tít tập dượt cho một màn vũ truyền thống. Trong màn vũ đó, Thuý và Bảo sẽ múa chung với hai cô bé khác để trình diễn nhạc phẩm "Tình Bắc Duyên Nam".  Mùa xuân cứ thế len lén về theo tiếng nhạc rộn ràng vào những ngày cuối năm.

Thuý và Bảo chơi với nhau từ lúc còn nhỏ xíu. Nhà hai cô bé khá gần nhau, đứa thì ở dãy D, đứa ở dãy A, chạy qua chạy lại chỉ trong một thoáng. Hai cô bé quấn quýt lấy nhau, cả ngày không đứa này ở nhà đứa kia, thì đứa nọ cũng chạy sang nhà đứa này. Hai bà mẹ quen mắt nhìn hai con bé chơi với nhau hằng ngày, lắm lúc cũng chẳng biết đứa nào mới thật là con của mình.  Mỗi chiều, hai cô bé thường rủ nhau đi lễ ở ngôi nhà thờ nhỏ trong cư xá. Thần tượng của hai cô là những bà Xơ ở nhà thờ. Cô nào mà được diễm phúc được bà Xơ sai làm việc này việc nọ thì cứ mê tơi, khoe với nhau nhặng cả lên. Chỉ nhìn các Xơ từ xa xa là hai cô cứ run lên như thần tử kiến long nhan. Không hiếm những lúc hai người ngồi với nhau, mơ được một ngày cũng trở thành bà Xơ, khoác chiếc áo màu đen giản dị, làm việc từ thiện ở những viện mồ côi quanh vùng.

Nhưng năm nay, lúc Tết đang hờ hững trở về, Thuý và Bảo cũng đang âm thầm chuẩn bị một sinh hoạt khác ngoài việc múa hát với bầy trẻ trong cư xá. Hai cô bé tạm quên đi các bà Xơ nghiêm nghị, để sửa soạn một trò chơi rất ư trần tục là tổ chức một đám cưới với nhau. Ý tưởng này là do chị Huyền, chị kế của Thuý, gieo vào đầu óc còn rất đỗi ngây thơ của hai cô bé. Số là thấy hai cô lúc nào cũng xoắn lấy nhau, có hôm chị Huyền cười bảo: “Tao nghĩ hai đứa mày nên lấy nhau cho được việc. Gớm, làm gì mà lúc nào cũng đi kè kè với nhau như hình với bóng!” 

Tưởng chị Huyền chỉ nói chơi, ai ngờ hoá thật. Một hôm, lúc Thuý và Bảo đang ngồi nói chuyện với nhau trước sân nhà Thuý, chị Huyền lại gần hai cô bé, thì thào: “Hai đứa nghe này! Chị có món đãi đám cưới cho chúng mày rồi đấy!” Thuý và Bảo trố mắt nhìn chị Huyền: “Thật sao chị?” Chị Huyền cười rạng rỡ: “Lại chả thật! Này nhé, trời xui đất khiến thế nào mà lại có một con gà mái tơ của ai đi lạc vào sau vườn nhà mình khoảng hai tuần nay mà không ai đi tìm cả. Hôm ấy chị sẽ bắt nó, làm lông, cho vào nồi luộc để làm cỗ cưới cho hai đứa nhé!” Thuý thắc mắc: “Vậy là mình ăn gà luộc thôi hở chị?” Chị Huyền nói giọng đắc thắng: “Luộc thế nào được, ngu ạ! Tao lấy một ít miến của mẹ trong bếp, nấu cho chúng mày cả nồi miến gà đấy. Tha hồ mà đánh chén nhá!” 

Thế là chị Huyền trở thành vị chủ hôn cho hai đứa. Chị còn sốt sắng bày vẽ thêm cho đám cưới sắp tới thêm phần thú vị. Chị hỏi: “Hai đứa mày định mời những ai? Phải có thiệp cưới hẳn hoi mới được nhé. Tao vẽ thiệp cho. Tao có hoa tay mà!” Thuý và Bảo mừng húm, ngồi nặn óc tuyển chọn khoảng năm sáu đứa bạn thân trong cư xá để gởi thiệp mời. Thuý còn đi xa hơn chút nữa, nói với chị Huyền: “Chị nhớ viết trên thiệp là ngày vui của “Lê Nguyễn nhập thiên thai”, chị nhé!” Bảo phục Thuý ra mặt. Cô bạn của mình thường ngày trông láu táu, lí lắc là thế mà cũng sâu sắc, văn chương nghệ thuật ra phết! Trong hai đứa, Bảo ít nói, rụt rè hơn, còn Thuý lúc nào cũng bặt thiệp, xã giao, đặc biệt là mê đọc sách và thích âm nhạc. Thuý họ Lê, Bảo họ Nguyễn, khiến Thuý liên tưởng đến truyền thuyết Lưu Nguyễn nhập thiên thai và cải biên thành chủ đề cho đám cưới của hai đứa. 

Chị Huyền làm bộ hốt hoảng: “Ấy chết! Đám cưới xong mà chúng mày nhập thiên thai cả lũ thì tao biết ăn nói làm sao với hai bà mẹ đây?” Nói thế nhưng chị vẫn nắn nót viết lên thiệp theo như lời Thuý yêu cầu. Chị còn vẽ thêm hình hai con chim đang xoải cánh viền quanh thiệp, trông thật bắt mắt. Thiệp mời được hai cô bé hân hoan chạy đi trao tận tay những vị khách danh dự. 

Lúc này, chị Huyền đã thật sự bị cuốn hút vào trò chơi. Chị chọn cho hai cô bé chiều thứ Bảy, lúc đó mẹ của Thuý còn bận bịu với công việc ở tiệm may chưa về. Trong lúc chị Huyền loay hoay với nồi miến gà trong bếp, Thuý và Bảo đi loanh quanh trong cư xá, tìm ngắt những cọng cỏ dài hai bên đường và một ít bông hoa dại để kết thành hai cái vòng hoa chốc nữa sẽ đội lên đầu làm lễ cưới. Trong trí óc ngây thơ của hai cô bé, chẳng có ai là cô dâu hay chú rể cả. Chỉ cần đội vòng hoa đứng bên nhau trước mặt mọi người để được công nhận tình bạn thật khăng khít và vô tư của hai cô bé là vui rồi.  

Năm giờ chiều. “Thực khách” bắt đầu lục tục tới. Các cô bé vừa đi vừa chuyện trò rôm rả, vui vì chưa bao giờ được dự một buổi tiệc đặc biệt như thế này cả. Đám cưới diễn ra thật nhanh và đơn giản. Thuý và Bảo trông bình thường như mọi ngày, hai cô bé vẫn mặc quần áo như khi đi lễ nhà thờ, chỉ có khác là trên đầu mỗi cô có trang điểm một vòng hoa xinh xinh. Chị Huyền gọi tất cả vào nhà bếp, bảo lũ trẻ ngồi xuống bàn rồi lễ mễ bê ra những tô miến gà còn bốc hơi nóng hôi hổi. Chủ khách đều tận tình ăn uống xì xụp, vã cả mồ hôi trán. Chỉ tội có con gà không may đi lạc đã trở thành niềm vui của bầy trẻ.

Chị Huyền không ăn mà chỉ hài lòng đứng ngắm công trình của mình đang được lũ trẻ chiếu cố và thưởng thức tận tình. Chốc chốc, chị lại ngước nhìn cái đồng hồ trên vách. Sắp tới giờ mẹ từ tiệm may về rồi. Chị vội vàng hối thúc lũ trẻ ăn cho mau hết để giải tán kịp thời, cho chị còn có thì giờ thu dọn, không để lại dấu vết gì đáng ngờ. Các cô bé vui vẻ chia tay nhau ra về. Chúng tíu tít ùa ra cổng, gặp đứa nào không được mời ăn cưới cũng khoe: “Tụi này vừa đi ăn cưới con Bảo và con Thuý về, chúng mày ạ! Có cả miến gà nữa.” Thế là một đồn năm, năm đồn mười, chẳng mấy chốc, mẹ của Bảo đã nghe tin Thuý và Bảo mới làm đám cưới bên nhà Thuý.

Lúc này thì Thuý và Bảo vẫn còn vui như Tết vì bữa tiệc bất ngờ vừa qua. Hai cô bé nhảy chân sáo về nhà Bảo để tiếp tục vui cho hết buổi chiều còn lại. Vừa vào đến sân nhà, hai cô bé đã thấy mẹ Bảo hầm hầm đứng chờ sẵn, trên tay cầm cây phất trần to tướng. Bà mắng ngay: “Hai con ranh! Chúng mày vừa làm chuyện tày trời gì đấy? Có biết làm như thế là mất duyên con gái hay không hử con? Lớn lên tha hồ mà ế chồng đấy, con ạ.” Vừa nói, bà vừa tiến tới, dứ dứ cái phất trần trong tay. Hai cô bé hồn phi phách tán, dắt nhau quay trở ra, chạy biến đi để tránh cơn thịnh nộ của bà mẹ.

Hai cô bé cứ thế mà nắm tay đi mãi..., đi mải miết ... trong dòng thời gian trôi qua hối hả, trong lúc cả thành phố cũng đang chuyển mình nhức nhối trong cơn sốt vàng da của thời cuộc. Từng nhà, từng nhà trong cư xá lần lượt trốn đi vượt biên.  Anh em của Thuý và Bảo cũng có vài người đi thoát, ở trại tị nạn vài năm rồi qua Mỹ định cư. Gia đình Thuý cũng  đuợc ông cậu làm giấy tờ bảo lãnh và đang chờ ngày phỏng vấn để đi Mỹ.

Hai cô bạn nhỏ, khỏi nói cũng biết là buồn không thể tả. Nhưng buồn hơn là Bảo, bởi vì Thuý còn có cái háo hức sắp được đi đến một chân trời mới, bên cạnh nỗi buồn sắp phải xa bạn. Còn Bảo thì chưa biết đến chừng nào mới đến lượt mình. Đâu đó trong những niềm vui hằng ngày đã  lẫn những nỗi buồn nhè nhẹ, vì hai cô bé cứ chạnh nghĩ đến ngày phải xa nhau. Không ai bảo ai mà bỗng dưng hai cô lớn hẳn lên, chín chắn thêm ra, vì đây là lần đầu tiên hai cô mới biết thế nào là buồn, là lo cho một ngày mai vô định. 

Nhưng đột nhiên, tình hình lại biến chuyển thật khó lường. Một ngày nọ, mẹ của Bảo liên lạc được với một đường dây vượt biên do một người quen tổ chức. Thế là bà nhắm mắt cho con gái đi theo chuyến ghe đó. Nhờ ơn trên che chở, chuyến vượt biên của Bảo chỉ mới đi chưa đầy một ngày trời trên biển, hãy còn trong hải phận Việt Nam thì đã được một chiếc tàu quốc tế cứu vớt, đưa đến cảng Singapore trong vài ngày rồi chở thẳng thuyền nhân trên tàu qua trại tị nạn Palawan ở Phi Luật Tân. Có ai ngờ Bảo lại đi trước Thuý! Bảo ngỡ ngàng trong giai đoạn quá mới mẻ của cuộc sống. Cô đi chung với một vài người quen trong cư xá chứ không có họ hàng thân thích nào khác. Mỗi ngày trong trại tị nạn là những giây phút mới lạ đối với Bảo. Cô phải học hỏi thật nhiều thứ, tạm quên đi nỗi buồn xa nhà và bạn bè. Cô không viết thư cho Thuý vì chẳng biết bạn mình có còn ở Sài Gòn hay không. Bảo ở trại Palawan trong tám tháng, được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và chấp nhận cho vào Mỹ vì bố cô ngày trước là trung tá trong quân đội cộng hoà.  Bảo cùng hằng trăm người tị nạn khác được đưa đến trại chuyển tiếp Bataan, cách thủ đô Manila hơn trăm cây số đường bộ. Tại đây, Bảo và mọi người được học các lớp Anh ngữ và hướng dẫn văn hoá Hoa Kỳ để chuẩn bị cho ngày định cư chính thức trong vòng sáu tháng tới.

Một buổi xế trưa, Bảo đang cùng vài người bạn trong trại đang đi về nhà sau một buổi học. Bỗng từ trước mặt Bảo đang bước tới một người mà Bảo không thể nào ngờ nổi: Đó không ai khác hơn là Thuý! Hai cô bạn mừng mừng tủi tủi, ôm chầm lấy nhau, cứ ngỡ đang nằm mơ. Gia đình Thuý được chính thức rời Việt Nam theo chương trình Orderly Departure Program. Hoá ra Thuý và gia đình đã đến Bataan được vài tháng rồi. Đây là một khu trại rộng mênh mông, chia thành mười vùng khác nhau. Đi từ vùng này tới vùng kia cuốc bộ cũng được nhưng khá mỏi chân nên nhiều người thường dùng một loại xe lam của dân địa phương để di chuyển cho nhanh. Mỗi ngày còn có nhiều chuyến xe buýt đưa mọi người đến lớp học. Khu trại rộng như thế mà Thuý và Bảo gặp lại nhau thật cũng là hãn hữu. Thế là hai cô lại xoắn lấy nhau (chữ của chị Huyền!) như ngày nào, hàn huyên tưởng như không bao giờ dứt. Khoảng hai tháng sau, gia đình Thuý rời Bataan đi Mỹ sau thời hạn sáu tháng. 

Thời gian lại trôi qua. Hai cô bạn ngày xưa đã gặp lại nhau ở vùng Cali nắng ấm, lại nắm tay nhau chạy như bay theo thời gian đang trôi vun vút, như ngày nào cùng nhau chạy trốn trận đòn của mẹ. Cuộc sống vội vàng nơi xứ người khiến đôi bạn cứ chợt biến chợt hiện trong đời của nhau, vì ai cũng lo sinh kế, lấy chồng, sinh con. Mỗi cô bây giờ đã có một chú rể cho riêng mình, hai người đàn ông yêu thương vợ và biết lo cho gia đình. Thuý có hai trai, một gái. Còn Bảo được một gái, một trai. Nhà cô nào cũng đủ nếp đủ tẻ. Cũng tương tự như bài thơ mà các cô bé đã đọc mở đầu cho màn vũ ngày xưa: “Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân... đến năm mười tám thiếp đà năm con.” Thuý hóm hỉnh nói với Bảo, thật hú vía tụi mình không bị mất duyên và ế như ngày xưa mẹ của Bảo đã lo xa, nhưng cũng không đến nỗi mỗi đứa tụi mình có những năm đứa con!

Gia đình Thuý ở San Diego, cuối miền nam Cali. Nhà Bảo thì ở Little Saigon, thủ phủ của quận Cam. Tuy xa mà gần, tuy gần mà xa. Nhưng mỗi lần gặp nhau, hai cô tưởng như thời gian và không gian không hề đứt đoạn hay chuyển dịch, cứ gặp nhau là  lại tíu tít với nhau không khác chi ngày trước. Có khác chăng là đề tài các câu chuyện đã hướng về phía con cái, gia đình chứ không chỉ là chuyện cá nhân như xưa. Lúc xa nhau thì hai cô lại bỏ ra hàng giờ để nói chuyện hay nhắn tin cho nhau, điện thoại cứ chốc chốc vui vẻ, réo rắt phát tín hiệu những tin nhắn bay qua bay lại không bao giờ muốn dứt.

Có lần, lúc đang ngồi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm đẹp của ngày xưa còn bé, Thuý nói với Bảo: “Bảo này, hôm nào tụi mình phải cùng nhau làm một chầu miến gà thật đặc biệt để nhớ lại ngày xưa, chịu không?” Bảo cười, háy mắt lại với Thuý: “Kiểu như làm anniversary vậy đó hở?” Hai ông chồng đang ngồi nói chuyện với nhau bên cạnh, tình cờ nghe được mẩu đối thoại này, cứ ngẩn cả người ra, chẳng hiểu mô tê gì cả.


Trần C. Trí

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.