Hôm nay,  

Người Về

15/08/202010:49:00(Xem: 4537)

 

Những bức thư tình buồn giúp người đọc thấu hiểu hơn ý nghĩa của ...*

Không thể nào Đoàn hiểu được tai sao Ba Mẹ lại bịn rịn/nghẹn ngào khi chia tay tại chân đèo Cả, trên khoảng đường nhựa đã bị Việt Minh đặt mìn phá hoại từ lâu! Chung quanh Đoàn cũng có nhiều người đàn ông dặn dò vợ/vuốt tóc con và những người đàn bà khóc sụt sùi. Ba ôm Đoàn, giọng rất buồn:

-Vào Nam con cố học hành cho nên người, giúp đỡ Mẹ và hai em, nghe, con!

Đoàn không biết gì để nói. Ba quay sang Mẹ, tiếp:

-Vào đến nơi, em nhờ người đưa thư của anh về cho Mẹ anh. Gia đình anh sẽ lo lắng cho Mẹ con em. Anh đi.

Vừa nghe hai tiếng “anh đi”, Đoàn lờ mờ hiểu rằng Đoàn sẽ xa Ba từ nay. Đoàn vội nắm tay Ba, gọi “Ba!” Ngẫng mặt nhìn lên, thấy mắt Ba chớp nhanh, Đoàn tựa vào người Ba, khóc! Nhỏ Lao và cu Động thấy Đoàn khóc, cũng khóc theo. Ba ôm ba đứa con vào vòng tay gầy guộc, giọng bùi ngùi nói với Mẹ:

-Em gắng lo cho các con. Anh sẽ gặp lại em và các con…

Nói chưa dứt câu, Ba vội vàng quay đi, theo toán đàn ông trẻ quay trở lại Tuy Hòa. Đoàn thấy nón cối của nhóm đàn ông trẻ cứ nhấp nhô trong nắng. Quân phục kaki vàng chỉ nhạt hơn màu lúa chín một tý thôi. 

Đoàn người còn lại – gồm đàn bà, người già và trẻ con – bồng bế nhau, đi ngược chiều với toán đàn ông trẻ, hướng về Nam. 

Chiều xuống, đoàn người chỉ mới tới giữa đèo Cả. Tất cả dừng chân nghỉ qua đêm. Mẹ và ba đứa con trợn mắt nuốt từng nắm cơm khô trong ruột tượng, do Đoàn mang theo.

Ăn xong, bốn Mẹ con theo mọi người xuống suối lấy nước uống. Nơi dòng suối, Đoàn thấy dấu vết của những người đã trốn vào Nam: Những đôi dép Bình Trị Thiên và nhiều bao tiền tín phiếu còn vất bừa bên dòng suối.

Nhìn mấy bao tiền, Đoàn chợt nhớ Ngoại. Ngoại có một “hầm bí mật” dưới chân cầu Ông Chừ để giấu tiền. Mỗi khi Ngoại bán được vật gì, cả nhà phải xuống “hầm bí mật” để đếm tiền. Trong khi đếm tiền, Ba thường cười “nửa miệng”, bảo: 

-Đồ xỏ lá! Chính phủ mà cái gì cũng “chú phỉnh”! Dân ăn cơm độn khoai mì năm này qua năm khác mà thằng dân nào cũng cầm trong tay cả bạc triệu, để tưởng mình là triệu phú!

Không thể nào Đoàn hiểu được Ba nói gì và Đoàn cũng không biết triệu phú là gì; nhưng Đoàn lại nhớ những lần Tây đổ bộ, tiếng kẻng trên Tháp Chàm dóng lên rộn rã, bà Ngoại phải gánh theo hai bao bố tiền và cả gia đình “chạy giặc” lên Phú Nhiêu.

Khi Ba được thuyên chuyển lên Phú Nhiêu, Mẹ sinh nhỏ Lao và cu Động “cùng một lần”. Lúc đó Đoàn không biết hai tiếng “sinh đôi”. Ba bảo Ba dự tính sẽ đặt tên đứa em của Đoàn là Trần Lao Động, vì tên của Đoàn là Trần Liên Đoàn! Không ngờ đứa em này lại “đem theo” đứa em gái cho nên Ba phải đặt là Trần Thị Quỳnh Lao và Trần Hữu Động. Mỗi tối, sau khi dạy Đoàn học, Ba thường ôm Mandolin, đàn những tình khúc lạ, Đoàn thích nhưng không thể hiểu.

Nhớ tiếng đàn Mandolin của Ba thì không thể nào Đoàn quên được tiếng hát buồn buồn của Mẹ mỗi khi Mẹ hát ru bé Lao hoặc cu Động ngủ: “…Mais la nuit, dans tes bras Je m'endors dans tes bras et la tendresse et toi, ne font plus qu'un pour moi…” (1) Tiếng hát của Mẹ chơi vơi, lạc lỏng như số vốn Pháp văn Ba Mẹ dạy cho Đoàn! 

Kỷ niệm về Ba theo Đoàn vào giấc ngủ, trên lưng đèo Cả, trong chuyến hồi cư về Thành. Những khi chợt thức giấc vì lạnh, nghe gió thì thầm bên rừng thông và tiếng sóng vỗ rì rào, đều đặn bên ghềnh đá chơ vơ, Đoàn chợt cảm thấy nhớ Ngoại. Những lần từ Phú Nhiêu về Tuy Hòa thăm Ngoại, Đoàn thấy Ba thường đứng lặng bên cầu Ông Chừ, nhìn về phương Nam với ánh mắt ngút ngàn nhớ thương!

Ba thương nhớ Bà Nội đến như vậy, tại sao sáng nay Ba không cùng gia đình về với Bà Nội? Đoàn thắc mắc, nằm co cạnh Mẹ, nhưng không dám hỏi và cũng không thể nào tự giải thích được. Vì Ba ít khi về nhà cho nên Đoàn không có nhiều kỷ niệm với Ba; do đó, những gì Ba làm khi Ba ghé nhà Đoàn đều nhớ rõ từng chi tiết. Như sáng hôm qua, ở nhà Ngoại, Ba trao Mẹ một vòng đeo tay bằng “inox”. Mẹ khóc. Giọng Ba bùi ngùi: 

-Em cất để kỷ niệm. Anh làm bằng tay đó, khắc tên anh và em.

-Em có các con, đủ an ủi rồi. Còn vòng đeo tay có tên “hai đứa mình”, anh cất đi; sau này mình gặp lại nhau, nếu già, nhìn nhau không ra thì còn vòng đeo tay!

-Vậy cũng được; em đeo vào tay trái cho anh

Sau đó, Ba Mẹ/Đoàn và hai em quay quần bên nhau suốt buổi. 

Đêm nay, theo tiếng sóng rì rào xa xa, Đoàn nghe tiếng Mẹ thở dài, có lẽ Mẹ cũng thương nhớ Ba! Nhớ đến Ba là nhớ những ngày ăn cháo mướp, cháo bí trừ cơm; vì nhà hết gạo, Mẹ không có tiền mua! Những lần đơn vị làm heo/bò “bồi dưỡng”, Ba đem phần thịt đơn vị cấp cho Ba kho khô hoặc rim mặn, đem về cho các con. Nghĩ ngợi miên man một lúc, Đoàn chìm vào giấc ngủ trẻ thơ.

Sáng hôm sau đoàn người tiếp tục hướng về Nam. Vừa qua khỏi đỉnh đèo Cả, Đoàn thấy bãi biển tuyệt đẹp và một chiếc tàu thủy thật to, đang hải hành ngoài khơi. 

Qua khỏi bãi biển Đại Lãnh, đoàn người lên một con dốc rồi dừng lại trước đồn có ông Tây cầm súng gác. Một ông Tây khác đứng trên “lô cốt”, “trâm” một tràng tiếng Tây.  Không ai hiểu gì cả! Mẹ nói trổng:

-Nó bảo đàn ông ngồi riêng, đàn bà và con nít ngồi riêng.

Mọi người làm theo lời Mẹ. Chỉ một chốc sau, một chiếc GMC chạy đến, dừng cạnh đoàn người rồi một ông Việt Nam nhảy xuống. Ông Tây và ông Việt Nam “bi bô” một chốc, ông Việt Nam bảo đàn bà, con nít lên xe trước. Ông Việt Nam soát mấy người đàn ông thật kỹ rồi cũng cho họ lên xe luôn.

Lần đầu tiên trong đời được đi xe hơi, Đoàn cảm thấy thích quá! Xe chạy thật lâu rồi dừng trước đồn Vạn Giả. Trong lúc sắp hàng, Đoàn nghe hai ông cãi nhau:

-Thì ông thông ngôn giùm đi. Bà ấy là đàn bà, lại “đèo” ba đứa con, khó khăn lắm!

-Mình không nên để tụi nó biết mình biết tiếng Tây, không tiện. “Elle” có vẻ hiểu biết lắm.

Người kia “hừ” lên một tiếng, có vẻ như nghi ngờ, vừa khi một ông Tây đi ngang, chìa bao thuốc, mời. Thấy bao thuốc màu ngà, có chữ Mic màu đỏ, Đoàn chợt nhớ Ba. Sao ở đây họ sang quá, hút thuốc Mic của Tây; còn Ba phải hút thuốc rê vấn với lá chuối non phơi hơi heo héo một tý!

Tối đến, đoàn người phải ngủ lại Vạn Giả. Sáng hôm sau xe GMC đưa tất cả vào Ninh Hòa. Tại Ninh Hòa, đàn ông bị giam lại để thanh lọc, điều tra. Đàn bà, con nít được đưa thẳng vào Nha Trang. Khi xe qua khỏi cầu Hà Ra, Mẹ bảo: 

-Đoàn! Nha Trang đây, con! 

Không hiểu có phải vì hình ảnh dễ thương Ba Mẹ thường “vẽ” vào tâm trí của Đoàn từ thời ấu thơ hay không mà khi Mẹ vừa dứt lời, Đoàn hít một hơi dài luồn không khí mát rượi và cảm thấy thương ngay vùng đất lạ, nơi bà Nội vẫn ngóng chờ người con thân yêu của Bà!

Vòng tay già nua của bà Nội giúp Mẹ nuôi Đoàn và các em; nhưng tình thương của bà Nội không thể xóa mờ nỗi buồn khổ thầm lặng của Đoàn và hai em; vì cả ba người cháu của bà Nội ba mang cái tên rất “nặng mùi Đảng” – Liên Đoàn Lao Động! Khi đi học, bị bạn hữu chế nhạo hoài, Quỳnh Lao đổi tên là Quỳnh Giao.

*********

Khi đơn vị của Đoàn tham dự cuộc hành quân hỗn hợp tại Vũng Rô. Trong tiếng đại pháo rền trời từ các chiến hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (V.N.C.H.) và tiếng súng xối xả của Việt cộng từ các mõm núi bắn ra, Đoàn quên mất dòng suối với những bó tiền tín phiếu mà bé Đoàn đã thấy năm xưa. Đoàn cẩn thận kiểm soát “con cái” của chàng. Tiếng súng phản công của Việt cộng vừa dịu xuống, Đoàn phất tay ra hiệu. Cửa đổ bộ của chiếc hải vận hạm hạ xuống. Đoàn nhảy xuống trước rồi phất tay cho cả đơn vị cùng ùa ra, tiến nhanh vào bờ.

Vì cuộc đổ bộ được thực hiện một cách bất ngờ và chớp nhoáng, Việt cộng bị rơi vào thế bất lợi! Các đơn vị V.N.C.H. phá hủy hoàn toàn mật khu của Việt cộng và tịch thu rất nhiều vũ khí hạng nặng.

Trưa hôm đó, từ chiếc trực thăng tải thương, Đoàn vừa vịn vào vết thương nơi vai vừa nhìn về bên kia đèo Cả, lòng bùi ngùi khi thấy lại chân đèo, nơi năm xưa Ba Mẹ đã bịn rịn chia xa!

Không bao giờ Đoàn có thể tưởng tượng được rằng, sẽ có một ngày – qua chỗ Ba Mẹ chia xa năm xưa – Đoàn bị Việt cộng trói tay/chở trên một chiếc Molotova cùng với những sĩ quan trang lứa với chàng! Tất cả đến với Đoàn quá đột ngột/quá bạo tàn!

Trong trại tù A30, mỗi ngày sắp hàng để đi lao động, Đoàn thấy quân phục của cán bộ, của quản giáo hoặc của vệ binh không có màu vàng dễ thương như màu lúa chín nữa mà Đoàn chỉ thấy màu quân phục xanh vàng giống màu cứt ngựa.

Khi bất ngờ được tha, trở về chốn cũ, Đoàn thấy ngôi nhà của Mẹ được dùng làm trụ sở xã! Bước vào hỏi thăm, cán bộ cho biết Mẹ và Quỳnh Giao ở trong cái chòi cuối vườn cam. Trước khi Đoàn trình diện và đem theo tiền ăn cho mười ngày – đúng như lời “cách mạng” kêu gọi “Ngụy” quân “Ngụy” quyền – cái chòi đó là nơi Mẹ chứa than, củi và những vật dụng ít dùng.

*******

Chiếc xe Lam vừa trờ tới, Đoàn đưa tay trái đón, tay phải vẫn vịn nửa tấm ván ép. Xe dừng. Tài xế nhìn Đoàn rồi ngạc nhiên reo lên:

-Trời, Thiếu tá! Để tôi phụ với. Thiếu tá mua ván ép chi vậy? Để tấm ván ép lên sàn xe, Thiếu Tá ngồi phía trước với tôi, nhen!

Mấy người trên xe lam vừa co chân lên, có ý nhường chỗ cho tấm ván ép vừa nhìn Đoàn với ánh nhìn đầy thiện cảm. Đoàn đáp:

-Không được, chú Tư à! Để tấm ván lên mui xe đi, chú Tư.

Nghe giọng nghiêm nghị và thấy gương mặt đau buồn của Đoàn, chú Tư bảo người lơ xe phụ với chú để tấm ván lên mui xe, cột lại. Xe chạy được một đoạn ngắn, liết ngang, thấy nét mặt của Đoàn bớt đăm chiêu, chú Tư gợi chuyện:

-Thiếu Tá về hồi nào, Thiếu Tá?

-Gọi tên tôi thôi, tá tướng gì nữa mà tá!

-Dạ, bị quen miệng rồi. Thiếu Tá về luôn hay là…

Chú Tư mới nói ngang đó, Đoàn đáp ngay:

-Về luôn.

-Chà, Thiếu Tá Thủy Quân Lục Chiến mà đi tù chưa tới năm năm là hên đó. Tôi thấy nhiều sĩ quan cấp úy, chỉ làm ở Quân Cụ hoặc Trợ Y thôi mà tới giờ chưa được về đó, Thiếu Tá.

-Mẹ tôi ủng hộ “nhà nước” ngôi nhà và vườn cam cho nên tụi nó cho tôi về; thằng Động, em tôi, vẫn còn trong tù!

-Hèn gì nghe lối xóm nói bà Cụ đã dọn ra nhà kho mà tôi chưa rảnh để ghé thăm. Ủa, bà Cụ ủng hộ nhiều vậy mà sao Đại Úy Động chưa được về?

-Ai biết được!

Ngày trước chú Tư là Nghĩa Quân, bị thương trong lần Việt cộng tấn công đồn. Sau khi được giải ngủ, chú Tư chăm sóc vườn cam cho Mẹ. Thấy Đoàn im lặng hơi lâu, chú Tư lại gợi chuyện:

-Thiếu Tá mua ván ép tính sửa nhà kho cho bà Cụ ở, phải không?

-Không, để đóng quan tài cho Quỳnh Giao – em tôi!

-Hả? Trời! Thiệt không, Thiếu Tá?

-Thằng chồng của Quỳnh Giao bị thương nặng trong trận Khánh Dương, được đưa về quân y viện Nguyễn Huệ chữa trị. Khi Việt cộng vô, Việt cộng đuổi tất cả thương binh ra khỏi nhà thương. Nghe tin, Quỳnh Giao vội đến nhà thương Nguyễn Huệ thì thấy, chồng nó – cũng như tất cả thương bệnh binh – kẻ bò, người lết dọc theo hai bên đường! Quỳnh Giao đem chồng nó về. Chỉ vài ngày sau, vì không có thuốc chữa trị, chồng nó bị nhiễm độc, chết! Chưa mãn tang chồng, Quỳnh Giao bị một thằng công an Việt cộng theo đuổi, dụ ngon dụ ngọt là nếu Quỳnh Giao lấy nó thì nó sẽ làm mọi cách để bảo bọc Quỳnh Giao và Mẹ tôi khỏi đi kinh tế mới; ngược lại, nếu Quỳnh Giao không lấy nó thì nó sẽ đề nghị Trên bắt Quỳnh Giao và Mẹ tôi phải đi kinh tế mới ngay. Quỳnh Giao quẩn trí, mua thuốc giết chuột, uống!

Chú Tư thở dài, im lặng. Đến nơi chú Tư dừng xe ngay đường mòn dẫn vào nhà kho của Mẹ rồi chíp miệng:

-Tội nghiệp cho gia đình của Thiếu Tá quá! Tôi đem xe về trả rồi tôi qua ngay, phụ với Thiếu Tá. À, Thiếu Tá có cưa, đinh, kềm, búa gì không?

-Không. Chú có gì đem cho tôi mượn.

Chú Tư “dạ” rồi rồ xe, chạy. Đoàn ì ạch vác nửa tấm ván ép đi theo đường mòn bên hè nhà cũ của Mẹ, vào sâu trong vườn cam. Những trái cam vàng hườm, bóng lưởng, lủng lẳng trên cành thật tương phản với bao tử lép xẹp và tâm hồn héo khô của Đoàn.

Mẹ bơ phờ ngồi ngang ngạch cửa. Gió lùa từng khóm tóc bạc lòa xòa trên gò má nhăn nheo. Đoàn nhìn Mẹ, thấy nước mắt vẫn còn đọng nơi khóe mắt của Mẹ. Mẹ hỏi:

-Con có mua vàng bạc, đèn cầy cho em không, con?

-Dạ, tiền không đủ mua tấm ván ép, con phải mua nửa tấm. Con chỉ trả trước được một ít, còn lại, dì Bảy cho thiếu chịu, khi nào mình đi kinh tế mới, Dì sẽ gỡ vài tấm “tôn” trừ nợ. 

Mẹ thở dài, quẹt nước mắt, trở vào ngồi bên xác Quỳnh Giao. Đoàn dùng ngón tay trỏ và ngón tay cái “đo” xác của Quỳnh Giao, xong, Đoàn bước ra gốc cam vừa khi chú Tư trở lại với những dụng cụ cần thiết. Thấy Đoàn có vẻ đắn đo, suy nghĩ, chú Tư hỏi:

-Sao? Thiếu Tá tính gì đó?

-Chắc hụt, chú Tư à!

-Chà, hụt nhiều không, Thiếu Tá?

-Thiếu một tấm dọc.

-Cha! Quan tài mà hụt, khổ quá! Hay là Thiếu Tá ra mua nửa tấm nữa.

-Mua nửa tấm này mà còn thiếu chịu; ai bán thêm nữa mà mua!

Chú Tư thở ra, chưa biết cách nào giúp Đoàn thì Đoàn nhìn quanh, vẻ chán nản. Bất ngờ Đoàn chỉ lên vách, tiếp:

-A, cạy tấm ván chỗ đó, cưa ra, chắp lại, chắc đủ đó, chú Tư.

-Ai lại làm vậy! “Nghĩa tử nghĩa tận”, phải có miếng ván đàng hoàn chớ ai lại lấy ván mục. Hơn nữa, lấy miếng ván đó thì chỗ đâu cho bà Cụ và Thiếu Tá che nắng, đụt mưa?

-Chúng tôi không có nguồn lợi tức, được lệnh đi kinh tế mới rồi, sá gì cái chòi này nữa, chú!

Cả hai hì hục đo/cưa xong tấm ván ép, chú Tư hỏi:

-Khăn, áo liệm, Thiếu Tá lo hết rồi, phải không?

-Lấy gì mua vải xé khăn cho nó? Mẹ tôi bảo mua đèn cầy và vàng bạc mà tôi còn không mua nổi! Lúc nãy may mà chú không lấy tiền xe lam, nếu chú lấy tiền có lẽ tôi phải khất, chờ lo đám tang cho em tôi xong, tôi làm lơ xe cho chú, trừ nợ!

Vừa lấy tiền từ túi quần, chú Tư vừa chíp miệng:

-Thiệt, thời bao cấp này còn tệ hơn chính sách “bần cùng hóa nhân dân” thời Việt Minh nữa!

-Chú còn trẻ, làm sao biết chính sách “bần cùng hóa nhân dân” của tụi nó được?

-Ông Già của tôi kể lại.

Đoàn cười buồn. Chú Tư đưa tiền cho Đoàn, thúc:

-Thiếu tá cầm số tiền này để lo hậu sự cho cô Quỳnh Giao. Để tôi đóng quang tài. Thiếu Tá chạy đi mua vải đi. Kệ, mình nghèo thì nghèo từ ngày tụi nó vô đây chứ mới nghèo đây sao mà sợ!

-Cảm ơn chú Tư. Dù trôi dạt chân trời/góc biển nào, tôi cũng nguyện sẽ trả lại chú số tiền này.

Khi trở về, Đoàn bảo:

-Chú Tư! Tôi ghé trụ sở xã, gặp Trung Úy Trụi, xin giấy phép chôn cất. Tên Trụi bắt tôi phải đóng tiền phạt về cái chết của em tôi!

-Trời đất quỹ thần! Từ đâu mà tụi nó bày ra tiền phạt người chết vậy?

-Tên Trụi bảo rằng nước nhà thống nhất, miền Nam được “giải phóng”, mọi điều đều có đảng và nhà nước “no”, tại sao phải tự tử? Sau khi tôi đóng tiền phạt, tên Trụ lại bảo hôm nay có phái đoàn từ Hà Nội vào tham quan, mai mới cấp giấy phép được.

-Cha, sao vậy cà? Hồi xưa giờ mình coi ngày giờ tốt để hạ huyệt; bây giờ phải chờ giấy phép rủi gặp ngày giờ xấu thì sao?

-Tụi vô thần mà, ai biết được!

Đoàn đem vàng bạc/nhan/đèn và miếng vải trắng vào để Mẹ làm khăn tang cho Quỳnh Giao; vì Quỳnh Giao chết trước, chưa kịp để tang cho Mẹ! Lúc trở ra, Đoàn nghe chú Tư than:

-Tội nghiệp, bà Cụ già cả, hiền lành, sao gặp chuyện buồn không hà!

-Trong trái tim của Mẹ tôi có hình bóng ba người đàn ông thân yêu nhất trong đời. Hai người như dòng động mạch, mang dòng máu trong lành đi khắp châu thân của Mẹ; một người như dòng tĩnh mạch, mang lượng máu đen về, làm rã rời tim Mẹ!

Không thể nào chú Tư hiểu được câu nói đầy ý nghĩa của Đoàn. Chú Tư sắp mấy tấm ván ngay ngắn rồi trao Đoàn cái búa:

-Để tôi ráp. Thiếu Tá ra bếp gỡ tấm ván đi; gỡ xong, mình cưa, ráp luôn một thể.

Đoàn lẳng lặng cầm búa bước đi. Nghe tiếng Mẹ khóc tức tưởi bên kia vách, Đoàn chợt nhớ và không hiểu tại sao mấy hôm nay chưa một lần chàng khóc em! Đoàn cố nhẹ tay và lựa thế để tấm ván cũ không bị bể. Vừa nạy xong tấm ván, Đoàn nghe tiếng chân người chạy rồi tiếng hét:

-Phá hoại tài sản nhân dân! Bắt lấy nó! Bắt lấy nó!

Đoàn ngơ ngác nhìn quanh, thấy hai tên công an chạy tới, theo sau là đám trẻ con. Đoàn chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra thì một tên công an chỉ vào mặt Đoàn:

-Anh kia! Ai cho anh phá hoại tài sản của nhân dân, hả?

-Vườn cam Mẹ tôi ủng hộ nhà nước; ngôi nhà lớn Mẹ tôi ủng hộ “cách mạng” làm trụ sở xã, còn cái chòi này…

Tên công an cướp lời Đoàn:

-Anh thật chả hiểu biết gì cả mà còn “ný nuận”! Đã cải tạo mấy năm mà vẫn chưa thấm nhuần tinh thần “cách mạng”! Mai mốt cụ Bà đi kinh tế mới, nhà này không thuộc về nhân dân thì thuộc về ai, hả?

-Nhưng bây giờ tôi cần một tấm ván để ghép quan tài cho em tôi!

Tên công an khác “xía” vô, luận điệu “tam vô”:

-Ôi, chết “nà” hết, chôn bằng gì chả được! Ở trại cải tạo anh thấy có ai chết được chôn bằng chiếu hay không chứ đừng nói đến quan tài!

Đoàn nghiến răng, nhìn hai tên công an rồi bất chợt Đoàn cất tiếng hát – như một người điên – ca khúc mà ngày xưa ở liên khu V chính trị viên thường tập cho trẻ em hát để nuôi căm thù: “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian! Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn!... Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành ... bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình…”(2) Nhận ra bài ca này là của “bên thắng cuộc”, hai tên công an hơi nhạc nhiên, chưa phản ứng kịp thì chú Tư run quá; vì chú Tư tưởng rằng Đoàn bị điên thật! Đoàn từ từ gục xuống, bậm tay đấm vào thân cây cam, gào lên:

-Anh em tao bị tù đày. Em gái tao, em rể tao chết. Mẹ tao phải ở nơi nhà kho này, đủ cực khổ bần hàn chưa? Bao nhiêu lợi quyền đã qua tay chúng bay rồi, chưa đủ hả?

Lúc này mọi người mới hiểu thâm ý mỉa mai sâu sắc của Đoàn khi chàng hát một phần của bài “cách mạng” để lên án “cách mạng”. Một tên quát:

-Địt mẹ! Câm mồm ngay! Muốn đi cải tạo “nại” hả?

Nghe ai ca mấy câu trong bài hát của Việt Minh rồi lại nghe tiếng cãi nhau, Mẹ che cặp mắt sung vù, bước ra. Thấy dáng Đoàn rũ rượi và đôi mắt đầy thống hận, Mẹ can ngăn:

-Đoàn ơi! Thôi đi, con!

Không để ý đến lời của Mẹ, Đoàn bậm môi, nhìn hai tên công an với thái độ khinh khỉnh, chưa kịp nói gì thì trung úy Trụi cùng toán công an chạy đến, khoát tay cho đám trẻ con và mọi người:

-Im! Phái đoàn của Thượng Tá đang tham quan, sắp đến rồi. Im hết!

Một toán công an và bộ đội ôm súng, đi chầm chậm hai bên xe. Trên xe, cạnh tài xế là một Thượng Tá cao niên, vóc dáng gầy gò, gương mặt khắc khổ, cằn cỗi như lòng mương dẫn thủy ở Phú Nhiêu vào mùa Hạ!

Xe từ từ chạy đến. Trung Úy Trụi và nhóm công an đưa tay chào. Chiếc xe bỗng dừng lại. Thượng Tá bước xuống, đến trước mặt trung úy Trụi khiến chàng ta mất bình tĩnh, mặt xanh mét. Với giọng Trung nhẹ nhàng, Thượng Tá chỉ vườn cam chi chít trái:

-Vườn cam của ai mà sai trái quá! Trung úy về viết giấy khen gửi cho người “sở hữu” vườn cam này. Phải chính trị như vậy nhân dân mới “hồ hởi”, phấn khởi tăng gia sản xuất.

Vừa nói Thượng Tá vừa mỉm cười vừa gật gù ra vẻ rất hài lòng về chuyến tham quan này.

Dù gương mặt của Thượng Tá đã nhuốm phong trần, nhưng giọng nói đó, sóng mũi đó và vừng trán đó khiến Mẹ cảm thấy run tay, mất bình tĩnh! Mẹ chưa biết phản ứng như thế nào thì trung úy Trụi chỉ vào Mẹ:

-Thưa Thượng Tá, vườn cam của cụ Bà đây. Cụ Bà đã “tình nguyện!” ủng hộ “cách mạng” vườn cam và ngôi nhà. Cụ Bà rất xứng đáng được nhận giấy khen của ủy ban nhân dân cách mạng xã.

Thượng Tá nhìn Mẹ. Bốn mắt giao nhau. Mẹ run rẩy cầm tay Đoàn, gọi khẽ “Đoàn ơi!” Đoàn cũng vừa nhận ra nhân dáng và giọng nói của người Cha sau mấy mươi năm xa cách. Vội nhìn vào tay trái của Thượng Tá để xác định, Đoàn thấy chiếc vòng bằng “inox” ngày xưa Mẹ đeo vào tay Ba vẫn còn đó. Thượng Tá, Mẹ và Đoàn đều ngỡ ngàng, bàng hoàng và lúng túng nhìn nhau. Bất ngờ Mẹ kéo tay Đoàn, giọng đanh lại, hét lớn như muốn trút tất cả uất hận/oán hờn:

-Thứ “cõng rắn cắn gà nhà”! Quân cướp nước chứ giải phóng cái gì! Đi, Đoàn! Đem tấm ván tới đóng quan tài cho em!

Đoàn bước theo Mẹ,  nhưng quay lui nhìn Ba. Những nhánh cam gai gốc che khuất khuôn măt sững sờ của Thượng Tá!...

ĐIỆP MỸ LINH

http://www.diepmylinh.com/

*.- Hình Internet.

1.- Je M'endors Dans Tes Bras - Dalida 

2.- Quốc Tế Ca, được phổ biến trong các nước Cộng Sản; lời Việt của Đỗ Minh



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.