Hôm nay,  

Lễ Vu Lan Từ Dương Gian Xuống Âm Phủ

28/08/202000:00:00(Xem: 4422)

LE VU LAN 01

Ngài Mục Kiền Liên (trái) và người mẹ là bà Thanh Đề. Hình vẽ vào thế kỷ 19.(nguồn: www.en.wikipedia.org)


Truyền thống văn hóa và Phật Giáo Việt Nam, ngày Rằm Tháng Bảy âm lịch hàng năm là ngày Lễ Vu Lan báo hiếu phụ mẫu và cầu siêu độ cho cõi âm hay những cô hồn ma quỷ. Thi hào Nguyễn Du trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh mô tả khung cảnh ảm đạm nơi cõi dương gian trong ngày Rằm Tháng Bảy để gợi lên một cõi âm thê lương:
 
Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào lòng chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
 
Trong Lễ Vu Lan, các chùa theo truyền thống Bắc Tông như Việt Nam đều tụng Kinh Vu Lan.
 
Kinh Vu Lan
 
Kinh Vu Lan tiếng Phạn (Sanskrit) là Ullambana Sutra là bản kinh đã được tìm thấy trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taishō Tripiṭaka) số 685 và 686 trong Quyển 16, trong phần Kinh Tập Bộ, theo www.en.wikipedia.org. Ngài Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa – 226-304 sau Tây Lịch) từ Ấn Độ sang Trung Hoa đã dịch ra chữ Hán bản kinh số 685 trong Đại Chánh Tạng, có tựa đề Vu Lan Bồn Kinh, khoảng từ năm 265 tới 311 trước Tây Lịch vào triều đại Nhà Tấn. Bản Kinh Vu Lan số 686 đã được dịch sang chữ Hán vào Triều Đại Đông Tấn nhưng khuyết danh người dịch.

Kinh Vu Lan đã được dịch sang tiếng Việt bởi nhiều vị, trong đó có bản dịch và chú giải rất công phu của Hòa Thượng Thích Trí Quang.

Kinh Vu Lan cũng được dịch sang tiếng Anh bởi nhiều dịch giả, theo www.en.wikipedia.org.

Eoyang Eugene dịch "Maudgalyayana Rescues His Mother From Hell" [Mục Kiền Liên Cứu Mẹ Khỏi Địa Ngục] được Nhà Xuất Bản Đại Học Columbia xuất bản năm 1985.

Mair, Victor H., dịch "Maudgalyāyana: Transformation Text on Mahamaudgalyāyana Rescuing His Mother from the Underworld" [Mục Kiền Liên: Bản Dịch Kinh Mục Kiền Liên Cứu Mẹ Khỏi Cõi Âm], do NXB Đại Học Cambridge xuất bản năm 1983.

Waley, Arthur dịch "Mu Lien Rescues His Mother from Hell" [Mục Liên Cứu Mẹ Khỏi Địa Ngục] xuất bản tại London năm 1960.

Johnson, David dịch "Mulian Rescues His Mother" [Mục Liên Cứu Mẹ] từ bản kinh chữ Hán, do NXB Đại Học Columbia xuất bản năm 2000.

Kinh Vu Lan kể rằng ngài Mục Kiền Liên [Maudgalyayana] -- một trong mười vị đại đệ tử của Đức Phật và cũng là người có thần thông cao diệu nhất trong những đệ tử của Đức Phật – sau khi chứng được lục thông đã sử dụng thần thông để tìm cha mẹ đã quá vãng của ngài. Cuối cùng ngài Mục Kiền Liên đã thấy mẹ ngài là bà Moggalī [thường gọi là Thanh Đề] sinh trong loài quỷ đói nơi địa ngục. Ngài bèn mang cơm vào địa ngục cho mẹ ăn. Nhưng khi bà cầm chén cơm lên để ăn thi chén cơm bốc thành ngọn lửa cháy do vì lửa xan tham của bà nổi lên. Ngài Mục Kiên Liên thấy vậy rất đau lòng và đã đến trình lại với Đức Phật về sự việc này để mong Đức Phật dạy cho cách giải cứu mẹ của ngài. Nhân đó Đức Phật đã nói Kinh Vu Lan.

Nội dung Kinh Vu Lan tương tự như Kinh Petavatthu Số 14 (Ngạ Qủy Sự Kinh) trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) của Kinh Tạng tiếng Pali. Kinh này kể chuyện về mẹ của ngài Xá Lợi Phất (Sariputta) là vị đệ tử trí tuệ đệ nhất của Đức Phật. Kinh mô tả cách ngài Xá Lợi Phất cứu mẹ trong 5 đời về trước lúc đó mẹ ngài bị đọa làm con quỷ đói. Tương tự như Kinh Vu Lan, ngài Xá Lợi Phất đã thiết đàn tràng cúng dường thực phẩm cho Tăng Già bốn phương. Với sự chứng minh của Đức Phật, ngài Xá Lợi Phất đã hồi hướng công đức cúng dường nhân danh người mẹ đau khổ của ngài. Nhờ công đức cúng dường này mà mẹ của ngài Xá Lợi Phất đã có thể thoát khỏi thế giới ngạ quỷ và tái sinh.

Câu chuyện khác cũng được tìm thấy trong Kinh Avadanasataka, cũng rất giống với Kinh Vu Lan. Trong kinh này ngài Mục Kiền Liên thay mặt cho năm trăm ngạ quỷ giao tiếp với thân nhân của họ là những người thay mặt ngạ quỷ cúng dường cho cộng đồng tăng. Một khi sự cúng dường công đức này thành tựu, thì những ngạ quỷ được thoát khỏi khổ đau và tái sinh.

Như vậy, Kinh Vu Lan bản dịch chữ Hán từ bản chữ Phạn của ngài Trúc Pháp Hộ mà Phật tử Việt Nam sử dụng lấy nhân vật Mục Kiền Liên làm tiêu biểu cho lòng hiếu thảo. Trong khi trong Kinh Tạng tiếng Pali của Phật Giáo Nam Truyền cũng có bản kinh tương tự nhưng nhân vật là ngài Xá Lợi Phất.
 
Lễ Vu Lan báo hiếu
 
Trong bài thơ “Bông Hồng Cài Áo” của Thiền Sư Nhất Hạnh được nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ phổ nhạc và thường được hát trong dịp Lễ Vu Lan, có đoạn mô tả về Mẹ.
 
Mẹ, Mẹ là lọn mía ngọt ngào
Mẹ, Mẹ là nải chuối buồng cau
Là tiếng dế đêm thâu
Là nắng ấm nương dâu
Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời
 
Có lẽ trên thế gian này không có tình yêu thương nào sâu đậm, bền chặt và thiêng liêng như tình mẹ con. Và trên thế gian này dường như không có trường lớp nào dạy con người về cách yêu thương con cái và cha mẹ, nhưng như chất liệu tự nhiên tình yêu thương đó tuôn chảy mãi mà không bao giờ cạn. Tục ngữ Việt Nam nói rất nhiều về công ơn cha mẹ.
 
Ơn cha bóng núi âm thầm
Nghĩa mẹ lặng lẽ nước sông đầu nguồn
Một đời dãi nắng dầm sương
Nuôi con khôn lớn tình thương dạt dào.
 
Chính vì vậy, lòng hiếu thảo là lẽ tự nhiên, là đạo làm người mà ở đâu và thời nào cũng ca ngợi, cũng tuyên dương. Khác chăng là Đạo Phật ngoài việc khuyên cha mẹ đóng đúng vai trò dưỡng dục con cái của mình và con cái giữ trọn lòng hiếu thảo với song thân về mặt vật chất, còn dạy con người chú tâm đến lãnh vực tinh thần và tâm linh. Điều này có nghĩa là cha mẹ và con cái ngoài việc yêu thương chăm sóc cho nhau về vật chất đầy đủ còn phải quan tâm và giúp đỡ nhau về mặt đời sống tâm linh để làm sao có được cuộc sống an lạc và giải thoát không những cho đời này mà còn nhiều đời kiếp trước và sau này.

Kinh Vu Lan diễn tả lòng hiếu thảo của ngài Mục Kiền Liên đối với mẹ. Nhưng chính Đức Phật là người cả đời thể hiện lòng hiếu thảo của ngài đối với song thân là Vua Tịnh Phạn (Śuddhodana), Hoàng Hậu Maya và kế mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahaprajapati). Chuyện kể rằng Đức Phật sau khi thành đạo lần đầu tiên về thăm Phụ Hoàng là Vua Tịnh Phạn tại Thành Ca Tỳ La Vệ, vì sợ Vua cha ra đón nên Đức Phật đã âm thầm đích thân vào hoàng cung để thăm Vua Tịnh Phạn. Kinh Phật kể rằng Đức Phật đã từng lên Cung Trời Đao Lợi để thăm và thuyết pháp cho mẹ là Hoàng Hậu Maya sau khi mất đã sinh về đó. Chuyện cũng kể rằng, trong tang lễ của Tỳ Kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề là kế mẫu của Thái Tử Tất Đạt Đa, Đức Phật đã tự mình đỡ tay khiêng kim quan của bà đến nơi trà tỳ.

Tại Việt Nam Lễ Vu Lan cũng là Ngày Lễ Mẹ. Trong ngày này con cái bày tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ qua những hành động cụ thể như tặng quà, đưa cha mẹ đi chùa lễ Phật, tổ chức tiệc mừng thọ cho cha mẹ, v.v…

Lễ Vu Lan cũng được tổ chức tại nhiều nước theo truyền thống Phật Giáo Bắc Truyền tức là các nước mà Phật Giáo được truyền vào qua ngả đường bộ từ Bắc Ấn Độ đến Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn, Nhật Bản.

Theo truyền thống, mỗi năm chư Tăng Ni cấm túc an cư kiết hạ trong 3 tháng, từ Rằm Tháng Tư đến Rằm Tháng Bảy mới giải hạ. Trong suốt 3 tháng này chư Tăng Ni tập trung tại một trú xứ, Tăng Ni ở riêng trú xứ, để học hỏi và tu tập. Sau 3 tháng an cư kiết hạ huân tu đạo nghiệp nên đạo lực của chư Tăng Ni đạt tới thời kỳ viên mãn và cũng đúng lúc để có thể cử hành Lễ Vu Lan cầu siêu độ cho các vong linh, cô hồn, ngạ quỷ chịu khổ nhục nơi cõi tối tăm đọa đày.

Vì vậy, theo thông lệ chiều tối ngày Rằm Tháng Bảy các chùa hay tổ chức lễ chẩn tế cô hồn để bố thí tài vật cho cõi âm thừa hưởng.

LE VU LAN 03

Thực phẩm được dâng cúng ông bà tổ tiên trong ngày Lễ Vu Lan tại Thái Lan.(nguồn: www.en.wikipedia.org)


Trong dịp Lễ Vu Lan tại Việt Nam theo truyền thống còn diễn ra nhiều cuộc cứu tế về tài vật và thực phẩm cho những người vô gia cư, người nghèo, và phóng sanh các loài động vật.

Có thể có nghi ngờ rằng không biết làm lễ cầu siêu và cúng dường như thế thì người chết có lợi ích gì không?

Trong tác phẩm “Để Ngộ Tông Chỉ Phật,” Cư Sĩ Nguyên Giác đã trích bản dịch tiếng Việt của Hòa Thượng Thích Minh Châu đối với Kinh Tăng Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya) mà trong đó Đức Phật trả lời câu hỏi có nên cúng tế, làm các nghi lễ bố thí cho người chết hay không.


“Thưa Tôn giả Gotama, bố thí có lợi ích gì cho các bà con huyết thống đã chết không? Các bà con huyết thống đã chết có được thọ hưởng bố thí ấy hay không?

—Này Bà-la-môn, nếu có tương ưng xứ, thời có lợi ích, không có lợi ích nếu không có tương ưng xứ…

(…)—Thưa Tôn giả Gotama, nếu bà con huyết thống đã chết, không sanh vào chỗ ấy, và các bà con huyết thống khác cũng không sanh vào chỗ ấy, thời ai hưởng bố thí ấy?

—Không có trường hợp ấy, không có cơ hội ấy, này Bà-la-môn, rằng chỗ ấy có thể trống không trong một thời gian dài, không có người bà con huyết thống đã chết. Nhưng này Bà-la-môn, người bố thí không phải không có hưởng quả.”

Cũng trong cuốn “Để Ngộ Tông Chỉ Phật,” do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2020 tại Hoa Kỳ, Cư Sĩ Nguyên Giác đã trích bản dịch Việt của Hòa Thượng Tuệ Sỹ và HT Đức Thắng trong Kinh Tạp A Hàm mà Đức Phật trả lời rằng việc cúng tế cho người chết có vô ích không.

“Bà-la-môn bạch Phật: Thưa Cù-đàm, nếu con vì tín tâm bố thí cho người thân tộc, nhưng họ không sanh vào trong chốn Nhập xứ ngạ quỷ và cũng không có các thân tộc quen biết khác sanh vào chốn Nhập xứ ngạ quỷ, thì thức ăn do lòng tin bố thí đó ai sẽ hưởng?

“Phật bảo Bà-la-môn: Giả sử ông vì những thân tộc quen biết mà bố thí, nhưng họ không sanh vào trong chốn Nhập xứ ngạ quỷ và lại cũng không có những người quen biết khác sanh vào chốn ngạ quỷ, thì việc bố thí do lòng tin, tự mình sẽ được phước. Của bố thí do lòng tin của người thí chủ đó, sẽ không mất đạt-thẩn.”
 
Ngạ Quỷ
 
Trong Kinh Vu Lan đã nói ở trên có nói đến mẹ của ngài Mục Kiền Liên vì tạo nghiệp ác mà phải sinh làm ngạ quỷ. Vậy ngạ quỷ là loài nào?

Ngạ quỷ tiếng Phạn (Sanskrit) là preta để chỉ cho một loại chúng sinh siêu nhiên trong Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Lão Giáo và tín ngưỡng dân gian tại Trung  Hoa và Việt Nam chịu nhiều đau khổ hơn loài người, đặc biệt cực kỳ đói khát, theo www.en.wikipedia.org.  Ngạ quỷ có nguồn gốc trong các tôn giáo Ấn Độ và được truyền vào các tôn giáo Đông Á khi Phật Giáo truyền bá tới. Chữ Preta thường được dịch sang tiếng Anh là “quỷ đói.” Trong các kinh văn Phật Giáo sơ thời như Petavatthu [Ngạ Quỷ Sự], chúng có nhiều khác biệt. Sự phát triển khái niệm ngạ quỷ đã bắt đầu với suy nghĩ rằng nó là tâm và hồn cùa người đã chết, nhưng sau đó quan điểm này đã phát triển thành trạng thái tạm thời giữa chết và tái sanh theo nghiệp theo vận mạng của một người. Để vào chu kỳ tái sanh theo nghiệp, gia đình của người chết phải thực hiện nhiều lễ nghi và cúng tế để hướng dẫn thần thức đau khổ vào cuộc đời mới.

LE VU LAN 02

Các ngạ quỷ bị nghiệp báo ăn phân người. Hình vẽ vào thế kỷ thứ 12.(nguồn: www.en.wikipedia.org)


Ngạ quỷ được tin là do đời trước của con người có nhiều sai quấy, tham nhũng, cưỡng bức, lừa đối, ganh tị hay tham lam. Như là kết quả của điều họ làm, họ đau khổ với sự thèm khát vô độ đối với vật chất. Truyền thuyết cho rằng những thứ vật chất đó là ghê tởm như xác chết hay phân. Ngạ quỷ và con người cùng sống chung và trong khi con người nhìn dòng sông thấy nước trong sạch, thì ngạ quỷ cũng nhìn dòng sông đó mà thấy ngược lại, như máu mủ và rác rưởi.

Ảnh hưởng bởi Ấn Độ Giáo (hay Bà La Môn Giáo ngày xưa) và Phật Giáo, hình ảnh ngạ quỷ cũng xuất hiện trong các nền văn hóa Ấn Độ, Tích Lan, Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam, Tây Tạng, Thái Lan, Cam Bốt, Lào và Miến Điện.

Trong Đạo Phật, ngạ quỷ là một trong sáu loại chúng sinh, gồm địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, atula, trời và người.

Tiếng Tàu gọi là ngạ quỷ, có nghĩa là “quỷ đói.”

Tại Nhật Bản, chữ preta được dịch là gaki [ngạ quỷ] tức là quỷ đói. Kể từ năm 657, một số Phật tử Nhật Bản lấy riêng một ngày đặc biệt vào giữa tháng 8 để làm lễ, qua nhiều hình thức như cúng dường, cầu nguyên trong niềm tin rằng các quỷ đỏi có thể được giải thoát khỏi tội nghiệp. Tại Nhật Bản ngày nay, chữ gaki thường để chỉ cho đứa trẻ hư hỏng hay con nít ranh.

Tại Thái Lan, chữ pret là quỷ đói trong truyền thống Phật Giáo đã trở thành một phần của dân gian Thái, nhưng được mô tả như là không thật.

Trong nền văn hóa Tích Lan, giống nhưng nhiều nền văn hóa Châu Á khác, người sinh làm ngạ quỷ nếu họ tham lam quá nhiều trong cuộc sống khiến cho các bụng to lớn của họ không bao giờ có thể chứa đầy bởi vì cái miệng của họ thì quá nhỏ.
 
Chuyện ngạ quỷ trong Kinh Phật
 
Trong tác phẩm “Để Ngộ Tông Chỉ Phật,” Cư Sĩ Nguyên Giác đã trích Kinh Ngạ Quỷ Sự (Petavatthu) do Hòa Thượng Indacanda dịch sang tiếng Việt kể chuyện một con quỷ đói xuất hiện trước ngài Nandasena tự giới thiệu rằng khi sinh tiền là vợ của ngài, vì tạo ác nghiệp nên sinh vào cõi ngạ quỷ. Truyện kể như sau.

“Nàng đen đủi, có vóc dáng xấu xí, thô kệch, có dáng vẻ ghê rợn, có mắt đỏ ngầu, có răng hô, tôi nghĩ rằng nàng không phải loài người?”

“Này Nandasena, tôi là Nandā, trước đây tôi đã là vợ của ông. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”

“Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà từ nơi đây nàng đã đi đến thế giới ngạ quỷ?”

Tôi đã là người nhẫn tâm, có lời nói thô lỗ, không tôn trọng ông. Sau khi nói lời tồi tệ với ông, tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”

“Này, tôi cho nàng tấm choàng. Nàng hãy quấn mảnh vải này vào. Sau khi quấn vào mảnh vải này, hãy đi đến, ta sẽ đưa nàng về nhà.

Khi nàng đã đi đến nhà, nàng sẽ nhận được y phục, cơm ăn và nước uống. Nàng sẽ trông thấy những đứa con trai của nàng, và nhìn xem những cô con dâu.”

“Vật thí của ông dầu tay trao tay vẫn không lợi ích cho tôi. Ông hãy làm toại ý các vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã lìa luyến ái, có sự nghe nhiều (học rộng), với cơm ăn và nước uống, rồi chỉ định sự cúng dường là dành cho tôi. Khi ấy, tôi sẽ được hạnh phúc, có sự thành tựu tất cả các dục lạc.”

“Tốt lắm!” Sau khi thỏa thuận, vị ấy đã thực hiện dồi dào vật thí: cơm ăn, nước uống, vật thực cứng, vải vóc, chỗ trú ngụ, lọng che, vật thơm, tràng hoa, và nhiều loại giày dép. Sau khi làm toại ý các vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã lìa luyến ái, có sự nghe nhiều (học rộng), với cơm ăn và nước uống, rồi đã chỉ định sự cúng dường là dành cho nữ ngạ quỷ ấy.

Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức: vật thực, y phục, nước uống; quả báo này là do sự cúng dường.

Do đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết, có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp người chồng.

“Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.

Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?

Hỡi nàng tiên có đại oai lực, tôi hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”

“Này Nandasena, tôi là Nandā, trước đây tôi đã là vợ của chàng. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.

Nhờ vào vật thí đã được chàng dâng cúng, tôi vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Này gia chủ, mong rằng chàng sống thọ cùng với tất cả thân quyến.

Nơi chốn không sầu muộn, xa lìa luyến ái, là chỗ trú ngụ của các vị có quyền lực. Này gia chủ, ở đây sau khi thực hành Giáo Pháp, sau khi dâng cúng vật thí, sau khi loại trừ ô nhiễm của sự bỏn xẻn luôn cả gốc rễ, không bị chê trách, mong rằng chàng đi đến nơi chốn cõi Trời.”

Để chấm hết bài này, xin trích mấy câu trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của thi hào Nguyễn Du nhắc nhở mười loài chúng sinh chiêm nghiệm câu “vạn cảnh giai không” trong Phật Pháp để giải thoát khổ đau và cầu nguyện cõi âm được siêu độ.
 
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

Ý kiến bạn đọc
02/09/202022:41:21
Khách
Ai tạo ra địa ngục?
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.