Hôm nay,  

Tìm Lại Thiếu Nhi Trên Đất Mỹ

28/08/202015:59:00(Xem: 4480)

A close up of a newspaper

Description automatically generated

Để tưởng nhớ nhà văn Đỗ Phương Khanh vừa tạ thế ngày 26 tháng Tám, 2020, tại Westminster, California. Thành kính phân ưu cùng nhà văn Nhật Tiến và đại gia đình.

Cuộc sống đôi khi có những cảnh ngộ vừa cay đắng, vừa ngọt ngào. Nói theo kiểu người Mỹ, đó là những giây phút “bitter sweet.” Đó cũng là điều vừa xảy đến với tôi vào cuối năm 2018. Hôm ấy là một ngày thật buồn. Người anh rể của tôi vừa qua đời. Tang lễ diễn ra trong một ngày không lạnh lắm trong mùa Đông tương đối lạnh năm nay. Nắng ấm lan tỏa trong không gian, nhưng cũng chưa đủ để xua đi nỗi buồn mà ai cũng cảm thấy được trong một ngày đưa tiễn người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Tôi nhận ra một vài người quen trong những người đến đưa tiễn anh tôi. Vài người trong bọn họ chỉ biết riêng anh tôi và tôi trong những trường hợp khác nhau, nhưng không ngờ là chúng tôi có liên hệ với nhau. Một trong những người khách mà tôi chào là cô Mai Khanh, ái nữ của nhà văn Nhật Tiến, một trong những cây bút gạo cội của miền Nam Việt Nam, người đã từng được giải thưởng văn chương toàn quốc của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Tôi thường nghe anh tôi nói chuyện về gia đình của nhà văn Nhật Tiến vì giữa hai bên có một mối thâm tình bắt đầu từ Việt Nam, lúc cùng sinh hoạt báo chí và văn chương ở Sài Gòn thuở đó. Không có nhà văn Nhật Tiến hôm đó, mà chỉ thấy có bà Nhật Tiến tháp tùng cô con gái đến dự tang lễ.

Sau nghi thức tụng niệm trong nhà quàn, đoàn người đi thành một hàng dài sang chỗ sắp hạ huyệt cho người quá cố. Trong lúc mọi người ngồi chờ giây phút đó, tôi chợt nhìn sang cô Mai Khanh và bà Nhật Tiến. Bỗng một ý nghĩ loé lên trong đầu tôi. Bà Nhật Tiến, nãy giờ tôi nghĩ không ra, chính là “chị Phương Khanh” của tuần báo Thiếu Nhi ngày nào đã làm say mê cả một thế hệ trẻ miền Nam cho đến tận ngày mất nước, trong đó có tôi! Ngày đó, chủ nhiệm tuần báo Thiếu Nhi là ông Nguyễn Hùng Trương (cũng là chủ nhân của nhà sách Khai Trí), còn chủ biên là nhà văn Nhật Tiến. Nhưng người gần gũi nhất với độc giả nhỏ tuổi chúng tôi không ai khác hơn là “chị Phương Khanh,” người bạn đời của nhà văn Nhật Tiến. Với các “thi sĩ” đầu hãy còn xanh đang tập tễnh làm thơ, “chị” thường thủ thỉ qua mục “Vườn Hồng” Với những đầu bếp tương lai, “chị” gởi gấm tâm tình qua những món ăn ngọt ngào trong mục “Tay Ngọc Bên Bếp Hồng” qua bút hiệu Mai Loan. “Chị” thường trả lời thư cho độc giả hoặc những “cây bút” muốn đóng góp vào vườn hoa Thiếu Nhi qua những “tác phẩm” vừa ngây thơ, vừa ngộ nghĩnh, bằng những lời lẽ lúc thì trìu mến, lúc thì rất “ngoại giao” khi bài không đăng được.

Càng hồi tưởng thật nhanh về “chị Phương Khanh,” tôi càng thấy hồi hộp. Cuối cùng, tôi quyết định đứng dậy, tiến về phía “chị”. “Chị Phương Khanh”của thiếu nhi chúng tôi ngày nào bây giờ là một phụ nữ vào tuổi thất tuần, tóc đã ngả màu. Tôi chào “chị” và nói thật nhanh:

-Thưa cô, xin lỗi cô. Cô là cô Phương Khanh, phải không ạ?

Tôi có thể cảm được rằng bà thoáng giật mình. Chắc từ lâu, đa số quen biết bà chỉ gọi hay nói đến bà như là “bà Nhật Tiến” chứ ít ai dùng đến tên Phương Khanh như tôi đã nói.

Lúc bà khẽ gật đầu và chưa kịp nói gì thì tôi đã tiếp luôn:

– Xin phép tự giới thiệu với cô, cháu là Trí, một độc giả trung thành của tuần báo Thiếu Nhi ngày xưa đây ạ.

Chỉ trong thoáng chốc, lời tự giới thiệu ngắn gọn của tôi hình như đã đủ sức mạnh để đưa bà trở về những tháng ngày thật đẹp đó. Chỉ cần bấy nhiêu đó thôi là hai cô cháu đã xem nhau như quen biết từ lâu lắm. Chính tờ báo Thiếu Nhi đã là sợi dây thâm tình kết nối chúng tôi nhanh như thế. Cô Mai Khanh ngồi bên cạnh cũng vui lây với cuộc gặp gỡ thú vị này. Tôi nói với bà Phương Khanh:

– Cháu thấy buổi gặp gỡ này đúng là một cuộc hạnh ngộ. Chỉ đáng buồn là chúng ta gặp nhau trong một hoàn cảnh buồn bã như hôm nay.

Trong lúc tiếp tục chờ đợi, chúng tôi có dịp kể lể với nhau bao nhiều điều chất chứa trong lòng về tờ báo Thiếu Nhi trong hơn bốn mươi năm qua. Bà Phương Khanh và cô Mai Khanh kể cho tôi nghe ngày trước đã cùng sinh hoạt với các em thiếu nhi ở Sài Gòn và các vùng phụ cận như thế nào. Những buổi hội họp ca hát, những lần chuyện trò, ăn uống vui vẻ. Tôi bùi ngùi nói:

– Hồi đó cháu ở Nha Trang nên không có được những dịp vui thú vị như vậy. Niềm vui của cháu lúc ấy là vào ngày Thiếu Nhi phát hành, cháu hồi hộp chạy từ trường về, háo hức ghé sạp báo mua về tờ mới nhất, với hình bìa lúc nào cũng dễ thương của hoạ sĩ Vi Vi, và tờ báo còn thơm nồng mùi mực mới.

Tôi như chìm hẳn vào vùng ký ức vàng son xa xưa, tiếp tục kể lể bao nhiêu điều với “chị Phương Khanh,” những điều mà tôi không bao giờ ngờ sẽ có ngày được thố lộ với “chị Phương Khanh” bằng xương bằng thịt đang ngồi trước mặt tôi.

– Cô biết không, cháu mua tờ Thiếu Nhi đến số cuối cùng, trong những ngày Sài Gòn bắt đầu xáo trộn, sắp rơi vào tay bọn Cộng Sản. Cháu còn nhớ lúc đó tờ Thiếu Nhi đã bị rút thành khổ nhỏ chứ không còn như lúc ban đầu. Cháu không những chỉ là độc giả mà còn đóng góp bài vở cho Thiếu Nhi nữa đấy ạ. Cháu đã có một truyện ngắn, một số bài thơ và chuyện vui cười đăng trên Thiếu Nhi.

Bà Phương Khanh hóm hỉnh nhìn tôi:

– Thế chuyện vui cười của em có chấm dứt bằng câu “Cả lớp cười ầm lên” không?

Tôi cười theo bà:

– Dạ không ạ, vì thường cháu kể chuyện xảy ra ở nhà chứ không phải ở trong lớp.

Đoạn tôi nói với cô Mai Khanh:

– Chắc hồi đó cô còn nhỏ nên không có được những niềm vui đó như chúng tôi phải không?

Cô Mai Khanh đáp:

– Không phải đâu anh ạ. Hồi đó Mai Khanh cũng đã được giao cho công việc cắt dán những bài thơ hay những mẩu chuyện vui cười rồi.

Tôi hỏi cô:

– Tôi còn nhớ được một trong những chuyện vui cười của tôi đăng trên Thiếu Nhi. Để tôi kể thử xem cô có nhớ chuyện đó không nhé. Chuyện kể về một con muỗi tí hon mới cất cánh bay lần đầu. Bay đi một vòng trong nhà về, muỗi con thủ thỉ với muỗi mẹ: “Mẹ ơi, con mới bay một vòng về. Lúc con bay vào một căn phòng, mọi người đều vỗ tay hoan hô con đó mẹ!”

Cô Mai Khanh thốt lên:



– Ô, Mai Khanh có nhớ chuyện đó. Nó độc đáo và dễ thương lắm nên anh nhắc đến là Mai Khanh nhớ ngay.

Tôi cũng thấy vui và xúc động không kém. Quay lại bà Phương Khanh, tôi tiếp tục nói bằng giọng pha chút dỗi hờn:

– Cháu có hai điều muốn “méc”với cô. Thứ nhất là không hiểu tại sao cháu được có nhiều loại bài được đăng, chỉ ngoại trừ ô chữ! Có lần cháu cặm cụi làm một cái ô chữ hình con bò thật công phu, mà chờ mãi không thấy nó xuất hiện trên báo. Lại nữa, cháu đã được chính thức nhận vào gia đình Thiếu Nhi qua thông báo trên báo, nhưng cái thẻ gia đình Thiếu Nhi gởi đến cháu không hiểu sao lại bị thất lạc. Mấy chục năm sau cháu vẫn còn ấm ức, cô ạ.

Bà Phương Khanh và cô Mai Khanh như cũng buồn vui theo những mẩu kỷ niệm của tôi về Thiếu Nhi ngày trước.

Cuối cùng, bà đưa cho tôi một tấm danh thiếp có địa chỉ và số điện thoại để liên lạc rồi chúng tôi tạm chia tay để bắt đầu dự phần nghi lễ còn lại. Hôm đó, tôi ra về buồn vui lẫn lộn. Buồn vì hình ảnh người anh rể hiền từ, vui tính cứ lởn vởn trong đầu. Vui vì lần hạnh ngộ bất ngờ vừa qua.

Về đến nhà, tôi vẫn còn miên man nghĩ đến cuộc nói chuyện với “chị Phương Khanh”. Thốt nhiên, tôi nhớ rằng lâu thật lâu rồi, từ trước 1975, tôi có cắt ra được mấy bài thơ trong vài số Thiếu Nhi, không hiểu sao mang qua được tới tận Mỹ. Thế là tôi lục tung giấy tờ tìm lại mấy bài thơ đó và may mắn thay, thấy được chúng vẫn còn đó. Tôi vội chụp lại những bài thơ đó và gởi email ngay cho bà Phương Khanh, cám ơn bà và cô Mai Khanh về buổi gặp gỡ trong ngày, kèm theo “chứng tích” ngày xưa. Bà cũng trả lời lại ngay. Trong thư bà nói có nói chuyện về tôi với nhà văn Nhật Tiến. Ông cũng sốt sắng cho phép tôi đến nhà thăm và nói chuyện với ông, còn hứa hẹn sẽ tặng tôi một số quà văn nghệ nữa.

Hai hôm sau, tôi hăm hở đến thăm nhà văn Nhật Tiến. Bà Phương Khanh đáng lẽ cũng sẽ có mặt trong buổi gặp gỡ này nhưng vì bận việc bất ngờ vào phút chót nên chúng tôi đành lỡ hẹn với nhau. Nhà văn Nhật Tiến ở không cách chỗ tôi là mấy. Lần gặp gỡ này giữa tôi và nhà văn mà ngày xưa tôi đã từng mến mộ qua những tác phẩm như “Quê nhà yêu dấu,” “Chim hót trong lồng,” “Người kéo màn,” v.v… cũng làm tôi xúc động không kém lần gặp gỡ bà Phương Khanh. Ông Nhật Tiến trông người chừng mực, khoan thai, khiêm tốn. Ai có thể ngờ rằng đó là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất trong nền văn chương nhân bản của thời Cộng Hòa… Ông tiếp đãi tôi rất ân cần. Tôi cho ông biết là có lần tôi đã chọn một truyện ngắn của ông để dạy trong lớp Vietnamese Literature in English Translation ở trường tôi là University of California, Irvine. Truyện của ông tôi chọn để dạy (cùng với một số truyện của những nhà văn khác như Nhã Ca, Lê Tất Điều, Duyên Anh, Bình Nguyên Lộc, Khái Hưng, Nhất Linh,… ) là truyện “Nồi Cháo Thịt”.
Truyện này được nhà văn Mỹ James Banerian dịch qua Anh ngữ với tựa đề “A Pot of Gruel”.

Nhà văn Nhật Tiến khoe với tôi một tấm thiệp Giáng Sinh mà ông Banerian vừa mới gởi cho ông và cho biết rằng ông ta hiện cư ngụ ở thành phố San Diego. Ông hỏi tôi một vài chi tiết về lớp học đó để lần tới viết thư cho ông Banerian sẽ đề cập đến chuyện tôi đã dùng cuốn sách dịch của ông ta cho lớp của tôi.

Đoạn nhà văn Nhật Tiến ân cần tặng cho tôi một số sách đã xuất bản của ông, từ Việt Nam qua tới Mỹ mà ông đã ký sẵn trước khi tôi đến! Chưa hết, ông còn in tặng tôi một hai bài thơ của tôi mà ông tìm ra được trong vài số Thiếu Nhi được lưu lại dưới dạng PDF do một người ái mộ nào đó đã bỏ công sức ra chụp lại hết từng trang của 110 cuốn (còn thiếu 26 số). Tôi được thêm một cái CD lưu trữ tất cả các số Thiếu Nhi đó. Trước khi ra về, tôi xin phép nhà văn Nhật Tiến được chụp hình lưu niệm với ông và được ông vui vẻ nhận lời.

Ít lâu sau, tôi liên lạc với bà Phương Khanh để xin một cái hẹn đến thăm bà để bù đắp lại lần gặp gỡ trước không thành. Bà vui vẻ nhận lời. Hôm sau, tôi lái xe đến thăm bà. Bà kể lại cho tôi thật nhiều chuyện cũ, từ những mẩu chuyện nhỏ lúc làm báo Thiếu Nhi, đến những năm tháng còn kẹt lại dưới chế độ cộng sản, cuộc vượt biển cam go của bà và hai người con gái, hay lần bà gặp tai nạn vì xe của bà và chú Nhật Tiên bị xe lửa tông vào, khiến ông bà phải trải qua nhiều tháng trời mới tạm hồi phục. Tôi được biết bà ăn chay trường đã mấy mươi năm. Bà cho tôi xem tủ sách về Phật giáo thật phong phú của bà. Lúc ngồi nói chuyện với bà, tôi vẫn còn nửa tin nửa ngờ rằng mình đang được diện kiến “thần tượng” của mình ngày xưa. Bà hỏi tôi về gia cảnh, nghề nghiệp và cho tôi nhiều lời khuyên hết sức quý báu. Tôi có hỏi bà về một câu phát biểu của một nhà văn khác có liên quan đến ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam để xem ý kiến của bà về câu nói đó. Bà không trả lời rằng ý kiến đó có đúng hay không mà chỉ nói:

- Cháu nên tin vào chính mình trước đã, đừng tin vào một cá nhân nào, kể cả cô! Cháu hãy tìm tòi, học hỏi và tra cứu sâu rộng thì sẽ thấy chân lý là ở đâu.

Sau đó, bà còn bày tôi vài cách tập thể dục để giữ gìn sức khoẻ cho cơ thể và tinh thần. Sau tai nạn mấy mươi năm về trước, bà cho tôi biết bà không bao giờ hồi phục hoàn toàn như xưa. Bây giờ bà phải dùng một cái walker có gắn bánh xe để di chuyển trong nhà. Bà đưa tôi vào nhà bếp để phụ bà pha trà, để trên một cái bàn nhỏ có bánh xe để đẩy ra phòng khách cho hai cô cháu cùng nhâm nhi trong lúc chuyện trò. Tôi nhận thấy thần thái của bà vẫn phương phi, mặc dầu thể trạng của bà khá suy yếu, một phần vì tai nạn năm xưa, một phần vì tuổi tác đã cao. 

Trong suốt một thời gian dài sau đó, người tôi vẫn còn lâng lâng vì cuộc gặp gỡ với hai nhà văn Thiếu Nhi ngày trước. Bao nhiêu kỷ niệm thuở ấu thời qua những vui buồn với tờ Thiếu Nhi đã làm sống lại trong tôi thật nhiều hình ảnh lẫn cảm xúc mạnh mẽ và sâu lắng. Tôi không còn cảm giác mất mát Thiếu Nhi trong những ngày cuối cùng của Sài Gòn nữa, mà thấy như từ đây trở đi sẽ mãi mãi có Thiếu Nhi trong tay, và trong tim, cho đến lúc năm cùng tháng tận.

Trần C. Trí

Ý kiến bạn đọc
04/09/202001:49:59
Khách
Quá tuyệt vời, một hồi ức đẹp, chân thực, sống động. Vài chi tiết nhỏ nhưng ấn tượng, là tờ báo ra số cuối cùng "đã bị rút xuống thành khổ nhỏ", là câu chuyện của muỗi con trong cuộc du ngoạn đầu tiên trong đời được mọi người vỗ tay hoan hô, hay chút giận hờn rất "chính đáng" của cậu bé không được nhận cái thẻ gia đình Thiếu Nhi của nửa thế kỉ trước... Nhịp điệu chuyện thong thả và cuốn hút. Cám ơn vì được nghe một câu chuyện cổ tích có thật!
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.