Hôm nay,  

Mắt Biếc U Hoài

12/09/202017:08:00(Xem: 3318)

 Không biết đã bao lần y tự hỏi: "Trời xanh vương mắt em hay là đại dương thâu vào trong mắt em?” đôi mắt đã làm biêng biếc một quãng thời gian trong đời y, đêm đêm vào trong giấc ngủ thành những cơn mơ. Nhiều lúc y thấy mình chấp chới bay, laị có lúc như bơi trong làn nước xanh lơ, đôi mắt ấy mới đẹp làm sao! Em sở hữu nó, tạo hoá đã tạo ra một tuyệt tác. Em mang trong người hai dòng máu, vừa Mễ Tây Cơ vừa có gốc Ăng Lê.  Chất Ăng Lê vượt trội, vóc dáng đẹp tuyệt, eo thon, chân dài, da trắng như tuyết, nói như kiểu xứ mình là trắng như bông bưởi. Tuy vậy, tầm vóc Mễ Tây Cơ cũng tầm tầm như y thôi! Cái dáng vóc của em khá nhỏ nhắn và thanh mảnh, rất khác với cái tướng thô như phần lớn đồng hương của em.  Cái mà tạo ấn tượng nhất là đôi mắt xanh của em, tuy thuần túy tây phương nhưng đôi mắt em laị rất đông phương. Y đã gặp và thấy nhiều đôi mắt xanh tuyệt đẹp, trong vắt, vui tươi…Riêng  đôi mắt xanh của em laị thoáng man mác buồn, mang vẻ u hoài. Không biết có chủ quan quá không khi y khẳng định em là người có đôi mắt xanh u buồn duy nhất. Y đã thao thức nhiều đêm, đã viết không ít những vần thơ về đôi mắt ấy. Thuở mới vào đời, mới biết yêu, y cũng từng mê mệt với đôi mắt đen long lanh đượm buồn, những đôi mắt đẹp u hoài luôn ám ảnh y.

 Y và em đều là di dân, những kẻ đến xứ này kiếm cơm áo và hưởng tự do. Quê hương em nghèo nàn, lạc hậu, bất công và tham nhũng tràn lan, những băng đảng kết cấu với quan quyền hoành hành kinh khủng, tội phạm ngang nhiên lộng hành vô pháp vô thiên, tội phạm xì ke - ma tuý như rươi. Người dân thấp cổ bé họng bị nhũng nhiễu, bị bóc lột, bị làm tình làm tội đủ điều. Người dân lương thiện là nạn nhân của bạo lực, cường quyền, đaị đa số đều cố gắng nhẫn nhục mà sống nhưng vẫn không yên, chỉ có cách bỏ xứ ra đi tìm đất mới dung thân… Xứ sở của y cũng thế, nào có khác chi, thậm chí còn tệ hơn vì nghẹt thở dưới ý thức hệ hoang tưởng, cái danh từ nhân dân bị lạm dụng kinh khủng, mọi thứ đều nhân danh dân nhưng thực chất dân chỉ là những con cừu bị cường quyền cạo sạch lông, đè đầu cỡi cổ. Bởi vậy mà người của xứ em và người của quê y đều tìm đường đến đây. Người xứ em leo tường, vượt rào, băng qua sa mạc… nhiều nguy hiểm, có nhiều người bỏ mạng, tuy có nguy hiểm nhưng so với cái nguy hiểm của người xứ y thì chẳng nhằm nhò gì. Người xứ y phải băng rừng qua Miên, Lào, Thái, phải vượt biển bằng những con tàu mong manh như chiếc lá, bất chấp bão tố, sóng gió, đói khát, hải tặc… và đã có mấy trăm ngàn người vĩnh viễn nằm laị trong lòng biển cả. Không biết nhân duyên gì mà y và em laị gặp nhau ở cái hãng này, laị làm việc gần nhau. Công việc dù có mệt thế nào đi nữa nhưng ngày ngày được thấy em, nhìn đôi mắt em là bao nhiêu mệt cũng tan biến, laị còn thấy hưng phấn và yêu đời hơn. Những lúc em nhoẻn miệng cười hoặc mở to mắt ngạc nhiên khi y làm một việc ngớ ngẩn hay hỏi một lời vu vơ chi đó, thì y laị cảm thấy sung sướng như bắt được vàng.

 Ngày ngày gặp em, lòng xao xuyến lạ thường. Y không phải là gã trai mới vào đời, thế mà đôi khi cũng thấy bối rối làm sao. Y thường nhìn đắm đuối vào đôi mắt biếc u hoài ấy, có lẽ cái nhìn quá lộ liễu và đầy đam mê nên em tỏ vẻ e thẹn cúi mặt hoặc ngó lơ, có đôi khi chau mày tỏ vẻ không đồng ý. Trời! cái chau mày càng làm cho khuôn mặt em trở nên đẹp lạ thường, trông dễ thương làm sao và đôi mắt xanh càng quyến rũ, lôi cuốn hơn.

 Chuyện xưa kể nàng Tây Thi đẹp lắm, nàng bị bệnh tim, mỗi khi cơn đau nổi lên thì thường cau mày và ôm lấy ngực, những lúc ấy thì vẻ đẹp của nàng laị như nhân lên gấp bội. Không biết Tây Thi đẹp cỡ nào chứ em của y thì đẹp nhất hãng này. Mắt xanh biếc của em làm y nao lòng, ngẩn ngơ cả trong giấc ngủ. 

 Mỗi ngày vào hãng, chỉ một cái ôm xã giao buổi sáng nhưng với y là cả một nguồn năng lượng cho cả ngày hôm ấy. Thế rồi một hôm nọ, cũng ôm xã giao nhưng y đã hôn vào cổ của em. Em không ngạc nhiên mà chỉ cười nhẹ. Em thừa biết lòng y rồi, cái kiểu nhìn của y đã nói lên tất cả, không chỉ em biết mà tất cả những người cùng làm ở phân xưởng này đều biết, tình cảm của y biểu lộ qua đôi mắt mí lót quá rõ ràng. Chỉ một nụ hôn nhẹ vào cổ mà y cảm thấy đời như lên hương, lâng lâng như bay trên mấy tầng mây xanh, như vẫy vùng trong làn nước biển màu da trời. Y đã hít lấy mùi hương của em, với y thì không có mùi nước hoa nào trên đời có thể sánh bằng.

 Tháng năm qua mau, khối tình si trong lòng y ở laị. Một ngày cuối tuần em nhận lời đi uống cà phê với y, mặc dù em chưa bao giờ uống cà phê và cũng không thích cà phê. Quán cà phê người Ý, bài trí rất đẹp và nghệ thuật, những tranh tượng mang phong cách cổ điển thời phục hưng rất đẹp, thức ăn ngon, đặc biệt những tách cà phê cappuchino đặc trưng kiểu Italino thơm ngát, beo béo thật tuyệt. Y và em cười nói đủ chuyện trên đời nhưng chẳng đá động gì đến chuyện cần nói, dù không nói nhưng cả hai cũng thầm hiểu và vẫn biểu lộ rất rõ ràng. Ngày xưa cụ Nguyễn Du đã từng bảo:” Tình trong tuy đã nhưng ngoài còn e”. Y thì biểu lộ ra, em biết, mọi người xung quanh biết, cái cách y ứng xử và nhìn đôi mắt biếc ấy thì ai cũng biết cả, dù cho người đó là kẻ khờ nhất thế gian. Em đã chịu hẹn hò, thế là bướm đã chịu đèn, hoa đã vào tay, cờ đã trương lên. Vậy mà y vẫn e, không dám thú nhận, lòng y lấn cấn nỗi đau. Y dậm chân tại chỗ không dám tiến tới, dù cửa đã mở, tiệc đã bày, khách đã sẵn lòng… Tâm tư y dằn vặt nhiều ngày, nội tâm y giằng xé dữ dội giữa đam mê và đạo đức, giữa bay bướm và đàng hoàng, cơn nội chiến trong lòng y thật khốc liệt. Y đã có vợ và cô con gái xinh xắn, vợ  y là người tốt, biết chăm lo và vun vén cho gia đình, chung thủy hết lòng…Y không nỡ làm cho vợ y đau. Lòng y chịu đau vì cơn đam mê thèm khát cháy bỏng, đôi mắt xanh mê hoặc y, đôi mắt xanh của em, một người phương tây laị mang vẻ u hoài của phương đông. Trách nhiệm, đạo đức một bên, bên kia là thoã mãn cái “tôi” cá nhân, cái tánh lãng mạn được bao biện là nghệ sĩ…Y ở giữa hai bàn cân, y đứng giữa con đường, cái con đường mà y luôn gặp trong đời. Có khi là giữa con đường đời, đường đạo, đường học, đường tình, đường tiến, đường lui…Lòng y còn có một nỗi khắc khoải lớn hơn nữa, y là một Phật tử, đã quy y, đã thọ giới. Nếu y “ chết” trong cuộc tình mắt biếc u hoài này tức là phản bội laị niềm tin và giới hạnh, tức là y nói và làm không nhất như, viết và sống không tương ưng. Sau nhiều ngày suy nghĩ, y thấm thiá với câu nói dân gian:” Ba sông bảy núi qua nổi, có cái gối ôm không dám vượt qua”, quả thật đúng như thế! 

 Y vẫn tự hào là một Phật tử, ở trong cái hãng này có mấy trăm con người với bao sắc dân và bao đức tin khác nhau. Y là Phật tử duy nhất trong số đó, lẽ nào giờ đây y laị bôi xấu cái đức tin của mình? lẽ nào làm ô uế cái danh dự người Phật tử? lẽ nào? lẽ nào? Bao nhiêu câu hỏi xoáy trong đầu y. Tấm thân hấp dẫn kia, đôi mắt biếc u hoài kia cũng riết róng trong tâm tư y, đẹp quá, dễ thương quá! mật ngọt của cuộc đời lẽ nào không hưởng?  Con tim và lý trí của y xảy ra nội chiến, người ta bảo:” Lý trí có lý lẽ riêng của nó” là vậy! 

 Thế rồi y cầm tay em nói một câu khách sáo và dối lòng:” Baby, you are my best friend”, một câu nói vô vị gây thất vọng ở nơi em. Có thể nói là câu nói vô duyên lạc lõng, chẳng ăn nhập gì với hoàn cảnh thực tại. Y nói cái câu nói không phải thực lòng của y và không phải là câu nói mà em muốn nghe. Em cười nhẹ nhưng thoáng vẻ buồn, đôi mắt xanh u hoài dường như buồn  và xa xăm hơn. Thế rồi những ngày sau đó em lặng lẽ hơn, ít cười hơn và cố tránh mặt y. Thế rồi gia đình em di chuyển sang tiểu bang khác, từ đó y không còn gặp laị em, vĩnh viễn mất em nhưng đôi mắt biếc u hoài vẫn lung linh trong tâm tư y. 

 Đêm về khuya, y quay qua hôn lên mắt vợ, tuy đang ngủ nhưng vợ y thoáng nụ cười nhẹ trên gương mặt. Lòng y bất chợt cảm động, may mà đã không vượt qua nổi cái gối ôm với mắt biếc u hoài kia.


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 09/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.