Hôm nay,  

Thầy Tôi, Năm Mươi Năm Trước

16/09/202012:02:00(Xem: 4542)
GS Le Huu Muc
Giáo sư Lê Hữu Mục



Tưởng niệm Giáo sư Lê Hữu Mục.

Riêng tặng Giáo sư Nguyễn Văn Sâm, và Ngọc Ánh đã trợ giúp tôi hoàn thiện bài viết này.


I. 

Năm mươi năm, nửa thế kỷ tròn, biết bao nhiêu sự việc đã xảy ra thăng trầm biến đổi, mà sao tôi cứ tưởng mới hôm qua !!??


Thời đó con gái được vào Đại học là niềm vinh dự lớn của gia đình, nhất là ở những gia đình nghèo, như gia đình đông con của ba má tôi vùng Quận Tư - Khánh Hội. Tôi sẽ không dông dài câu chuyện về xã hội, chính trị.. thời đó luôn luôn xáo trộn như cuộc chiến Tết Mậu Thân 1968, hay cuộc chiến Mùa Hè đỏ lửa 1972, mà tôi chỉ muốn nhắc đến  Thầy giáo của mình năm học 1969-1970 ở Đại học Sư phạm – Saigon.


Tôi là người rất may mắn trong đường học vấn, và học rất dễ dàng. Trong khi anh em trong nhà đều theo học Ban A, B (Ban Hóa, Sinh, Ban Toán, thời bấy giờ), thì tôi lại theo học Ban C, tức Ban Văn chương Việt nam.

Những năm cuối của bậc Trung học, tôi học ở một ngôi trường có tên là Trường Sơn, Quận Ba, Saigon do nhà văn, cũng là thầy Nguyễn Sỹ Tế làm Hiệu trưởng. Trường Sơn là trường chuyên ban C, nên lớp tôi có nhiều học sinh chuyển qua từ các trường Taberd, Marie Curie, tức là học sinh trường Tây. Tôi học chung với đám “con nhà giàu” “nói tiếng Tây” nên cũng có phần “chới với” về ngoại ngữ.

Giáo sư Trường Sơn phần nhiều là những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng... như Thi sĩ Nguyên Sa-Trần Bích Lan, Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, Giáo sư Hoàng Cung… Lên Đại học chúng tôi may mắn được “tiếp cận” với những giáo sư lừng lẫy như Linh mục Thanh Lãng, Giáo sư Lê Ngọc Trụ, Giáo sư Phạm Cao Dương, Giáo sư Nghiêm Toản, Giáo sư Nghiêm Hồng …để có cơ hội học tập cái cao quí, tài hoa của họ.

Và, giáo sư mà tôi có nhiều sự nể trọng, kính phục, kỷ niệm, và cũng có nhiều tâm tình gửi gấm về ông, đó là Giáo sư Tiến sĩ, Thầy Lê Hữu Mục.


Cuối năm 1970, chúng tôi tốt nghiệp khóa học cấp tốc dành cho giáo sư Trung học Đệ Nhất cấp, tức là giáo sư dạy từ Đệ Thất (lớp Sáu) cho đến Đệ Tứ (lớp Chín). Có lẽ do tình hình cả nước thiếu giáo sư Trung học diện này, nên Bộ Giáo Dục mở khóa cấp tốc mười hai tháng, thay vì đào tạo cho diện Cao đẳng Sư phạm hai năm. Kỳ thi tuyển đó có kết quả vào ngày 17/11/1969 với bốn mươi bảy sinh viên, mà tôi may mắn, vinh dự đạt điểm ưu hạng, và điểm số của năm học kết thúc vào ngày 16/11/1970 vẫn với kết quả dẫn đầu.


Như vậy, đúng trong mười hai tháng ở Đại học Sư phạm với Giáo sư hướng dẫn, chịu trách nhiệm trực tiếp lớp tôi là Thầy Lê Hữu Mục, và tôi là sinh viên ưu tú của Thầy. Sau này, cũng mới đây thôi, khi đọc tiểu sử, tôi mới được biết Thầy sinh năm Ất Sửu 1925, tức Thầy hơn tôi hai con giáp. Lúc đó Thầy bốn mươi lăm, còn tôi hai mươi mốt tuổi.


Sự Vụ Lệnh bổ nhiệm đi dạy học được ký ngày 23/01/1971, và tôi trình diện Trường Phổ thông Trung học Cần Giuộc – tỉnh Long An, cách trung tâm Saigon hai mươi lăm cây số. Đây là nhiệm sở gần nhất cho sinh viên tốt nghiệp đỗ đầu bảng… Vừa đi dạy, vừa tiếp tục học ở Đại học Văn Khoa, tôi hoàn thành Cử nhân Văn chương Việt nam vào ngày 18/10/1972…


Trong mười hai tháng học liên tục không nghỉ hè của khóa học, lớp chúng tôi gần như là một gia đình. Chúng tôi gặp nhau mỗi ngày, cũng bao nhiêu gương mặt đó, và dĩ nhiên hiểu luôn tính nết của nhau. Thầy Mục có nhiều giờ dạy nhất với chúng tôi, vì ngoài môn chính là Văn chương Quốc Âm, Thầy còn dạy về Tâm lý học, và Nghệ thuật Giảng dạy. Những giờ đi thực tập với Thầy ở các trường Phổ thông Trung học Saigon là những giờ căng thẳng nhất. Thầy luyện tập cho chúng tôi về giọng nói, cử chỉ, bước đi, cách nhìn khi đứng trước học sinh. Thầy rất gần gũi, yêu mến sinh viên, học trò của mình. Thầy gọi chúng tôi bằng tên, hoặc bằng “Mi” và xưng với học trò là “Ta”.


-Ta là Hữu Mục, Hữu Mục là có mắt, có mắt là Hữu Mục !

Về sau này, khi đọc được quyển “Giáo sư Lê Hữu Mục, và những cây bút thân hữu cùng Đồng Tâm” được Văn đàn Đồng Tâm (Houston-Texas) in năm 2010, tôi mới vỡ lẽ ra nhiều thứ, và day dứt không nguôi về sự thiếu sót tắc trách, sự vô tình của mình đối với Thầy.

Giáo sư Lê Hữu Mục là giáo sư “Lê Có Mắt”, đồng thời là giáo sư “Lê Có Tai”, mà tôi mạn phép tỏ bày với quí vị ở cuối bài.


Bây giờ, đã năm mươi năm qua, tôi vẫn nhớ như in hình dáng của Thầy. Dáng người đậm, cao to, hay mỉm cười, giọng nói ồm ồm như lệnh vỡ. Lớp tôi chỉ có bốn mươi mốt học sinh nên Thầy không cần micro khuếch âm ; chỉ khi nào đến giờ học Y tế học đường, hay Quản trị học đường chung với học sinh các lớp khác của khóa, các giáo sư mới dùng. Thầy Mục đi đứng, nói chuyện nhanh nhẹn ngay cả lúc giảng bài. Thầy không có cours cho lớp, sinh viên phải tự ghi chép. Thầy rất thích sự sáng tạo từ học trò.


Thầy Mục với văn tài nổi trội từ những năm Thầy còn trong tuổi thanh xuân, “đã có những công trình làm ngẩn ngơ người đọc” (Giáo sư Nguyễn Văn Sâm). Đó là bản dịch hai quyển truyện ký bằng chữ Hán là Lĩnh Nam Chích Quái, và Việt Điện U-Linh Tập. Thầy Mục có bằng Cử nhân năm hai mươi lăm tuổi (1950), do cơ cấu giáo dục Đại học của Việt Nam Cộng Hòa thời đó ưu tiên cấp bằng Tiến sĩ cho những ai du học nước ngoài về. Vì thế Thầy Mục phải chờ đến hơn hai mươi năm sau mới có dịp thi bằng Tiến sĩ Quốc gia năm 1973 tại Đại học Văn Khoa – Saigon. Kỳ thi Tiến sĩ Quốc gia này duy nhất được tổ chức chỉ một lần (vì hai năm sau đó, Saigon bị thay “người chủ” mới), và người đỗ Thủ khoa chính là Thầy Mục, và Á khoa là Giáo sư Nguyễn Văn Sâm, Thầy Đồ trên đất Mỹ hôm nay ; hiện đang nghỉ hưu ở California.


Kỷ niệm sâu sắc nhất mà tôi còn nhớ mồn một sau năm mươi năm với Thầy Mục, là lần thầy trò du ngoạn suối Lồ Ồ-Thủ Đức. Nhân cuộc du ngoạn ngoại khóa này, Thầy chỉ dạy cho cả lớp chúng tôi kỹ năng “nói trước công chúng”. Sáng hôm ấy, chúng tôi khệ nệ mang theo đủ thứ thức ăn, nước uống, lều trại, tấm trãi. Thầy Mục mang theo món cơm nắm, muối vừng. Thầy nói :


-Vì muốn cơm nắm dẻo, ngon, bà xã của thầy phải dậy từ sớm nấu cơm, nắm cơm cho tụi mi đó.

Chúng tôi cảm động cám ơn Thầy, đồng loạt sà xuống giỏ cơm nắm còn nóng hổi. Miếng cơm trắng phau, mịn, dẻ, mềm được gói kỹ lưỡng trong lượt vải mùng tinh tươm. Mấy đứa miền Nam –trong đó có tôi- chưa bao giờ được ăn món này, nên hả hê, thích thú lắm. Món cơm nắm của Thầy phút chốc sạch veo, còn bánh mì chả, gỏi cuốn, bò bía.. phải một phen..ế độ. Chúng tôi vui đùa, nhảy nhót chung quanh Thầy như trẻ nít, Thầy cười vui, trẻ trung như tuổi thanh xuân.


Chỉ với mười hai tháng học, nên chúng tôi chưa được hiểu biết cặn kẽ về tài hoa của Thầy Mục. Các bạn khác học hệ ba năm, có lẽ có nhiều kỷ niệm, và thân tình với Thầy nhiều hơn chúng tôi có. Điều đó, ắt hẵn. Vì điều đó, đến bây giờ, sau năm mươi năm chìm, nổi, tôi đã nhiều đêm trăn trở, tự trách mình, khi nghĩ đến Thầy Mục thương kính mà đáng lẽ tôi phải tìm thăm khi Thầy còn với mọi người.



II.  

Thầy Mục thương kính!

Khi con đặt bút viết những dòng này trân trọng gửi đến Thầy, thì mùa Hè sắp dứt. Mùa Thu miền Đông-Bắc sắp trở về, và sẽ có những chiếc lá đủ mầu, sẽ đan xen cho một mùa Thu với sắc mầu tươi tắn. Niềm tiếc nhớ khôn nguôi của đứa học trò tốt nghiệp ưu hạng ngày cũ khóa 1969-1970 Đại học Sư phạm Saigon chắc có thể Thầy không thể nhớ. Nhưng có điều, con tin rằng Thầy sẽ không quên lần thầy trò ta gặp nhau ở bùng binh chợ Saigon. Hai thầy trò vào quán cơm Thanh Bạch ăn trưa – thời khắc ấy chắc khoảng giữa tháng 4/1973. Vẫn nụ cười hóm hỉnh. Trong bữa ăn, Thầy nhìn con rồi nói :


-Mi khoan lấy chồng nha, học tiếp Cao học rồi về trường dạy học với Thầy.

Lúc đó, con choáng váng mặt mày, vì không nghĩ được Thầy có cái nhìn sâu rộng, ưu ái đó với con.


-Thưa Thầy, con nghĩ mình không đủ sức để học tiếp. Con còn một bầy em khốn khó.

Thầy nheo mắt nói nhanh :


-Mi quên rằng ta là Hữu Mục, Hữu Mục là có mắt sao? 

Rồi Thầy nói tiếp luôn :


-Ta có mắt nhìn người, làm gì có một NTL thứ hai!!!

Con hết hồn, và tự nhủ sao Thầy lại đánh giá mình cao đến thế. 

Con lắp bắp :


-Thưa Thầy, con không dám nghĩ xa như vậy đâu.

…Rồi Thầy trò chia tay…, chia tay cho đến bây giờ…


Có một điều làm con thích thú, tâm đắc, con xin thưa cùng Thầy : Đó là con cùng cầm tinh con giáp tuổi Sửu, tuổi con Trâu như Thầy. Con đến với cuộc đời này sau Thầy hai con giáp, tức sau hai mươi bốn năm. Giáo sư Nguyễn Xuân Hoàng cũng tuổi Sửu, nhưng chỉ hơn con một giáp, tức Thầy Hoàng sinh năm 1937. Tới đây, con có một nụ cười ý nhị, vì nghĩ rằng những con người cầm tinh tuổi Sửu rất đổi tài hoa, nhưng cuộc đời lắm lúc cũng trầm luân, khổ hạnh, vì “Nhất phiến tài tình vương khổ lụy”, phải chăng, thưa Thầy!!??


Thầy là nhà giáo, nhà nghiên cứu, là dịch giả, là nhà văn mà còn là nhạc sĩ. Thầy đã là ngọn hải đăng để chúng con bước vào con đường giáo dục như Thầy. Như R.Tagore, Triết gia Ấn Độ đã nói : “Nhà giáo như một ngọn đuốc, nếu không thắp sáng được mình, thì làm sao mồi được cho những ngọn đuốc khác?”. 


Điều này thật đúng, Thầy ơi! Con đã không “thắp sáng” được mình, vì chỉ vài năm đầu ra trường đi dạy trẻ. Con cũng chỉ là cô giáo trẻ, vui tươi, hồn nhiên, mơ mộng nhiều về một tương lai tươi đẹp. Nhưng sau 1975, con trở thành “thợ dạy”, công việc “thắp sáng” cho thế hệ tương lai biến thành “cần câu cơm”, từng đêm nhục nhằn thảng thốt. Tâm trạng đó đúng như ý câu lục bát của Thầy Nguyễn Văn Sâm khi đạp xe ngang qua Đại học Văn Khoa-Saigon :


“Trường này đâu phải trường ta.

Liệu mà sửa soạn về nhà đi buôn”. 

Và con cũng biết rằng Thầy cũng khổ đau lắm lắm trong hoàn cảnh ê-chề đó.

Thầy yêu sách vở, yêu trường lớp biết bao! Và suốt đời Thầy cặm cụi lo toan cho việc nghiên cứu văn chương Hán-Nôm. Thầy làm việc không ngơi nghỉ ; và sách vở đối với Thầy là tài sản, là tim óc, vô giá. Điều đó con biết được do qua ngòi bút kể chuyện của chị Lê Thị Hiền Minh, con gái lớn của Thầy : “Tháng 12/1978, thăm nuôi ông ở trại cải tạo Bầu Lâm, tôi có báo hai tin dữ : Bà nội mất, và “họ” đã tịch thu hết sách vở của bố rồi. Ông òa khóc như trẻ thơ khi nghe tin thứ hai”.Thương Thầy biết bao nhiêu. Biết được việc này ruột gan con đứt hết, Thầy ơi!


Thầy là “Lê có Mắt”, cũng là “Lê có Tai”. Điều này mãi về sau này con mới biết. Sao mọi sự quá trễ tràng với con!!?? Biết Thầy ở Canada, mà từ New York tới Canada có xa xôi gì cho cam, mà gần hết cuộc đời con chưa tới được để thăm Thầy!! Điều đó là một nuối tiếc lớn cho đứa học trò này, Thầy Mục ơi! Nhưng con lại có niềm vui nho nhỏ, vì con còn biết được “bí mật” của Thầy… là một nhạc sĩ khi mới mười ba tuổi. Bài nhạc của Thầy tựa là “Chèo Đi, Bơi Đi” đã ra mắt thính giả năm 1938. Rồi sau đó lần lượt “Trở Về Mái Nhà Xưa”, “Hẹn Một Ngày Về Vinh Quang”. Căn nhà 57 Duy Tân Saigon là một thư viện, cũng là một nhà hát với tiếng đàn guitar, hay tiếng kèn saxo, đặc biệt là tiếng dương cầm của Thầy phải nói chắc là tuyệt diệu lắm. 


Năm 2007, lần gặp gỡ các thân hữu, và học trò ở Cali, lúc đó Thầy hơn tám mươi tuổi. Dù nghễnh ngãng trong giao tiếp, nhưng Thầy vẫn nhận ra từng âm sắc sai trong bất cứ câu nhạc nào. Một người già tám mươi hai tuổi vẫn say sưa dạo những ca khúc kinh điển, bất hủ thế giới như Dạ Khúc (Serenade-Schubert), Dòng Sông Xanh (Le Beau Danube Blue-Johann Strauss Jr.), hay Trở Về Mái Nhà Xưa (Come Back To Sorriento-Ernesto De Curtis), thì không phải ai cũng như thế được.


Thưa Thầy!

Con biết Thầy mới vừa từ giã thế nhân ngày 08/11/2017 ở Montreal-Canada thọ chín mươi hai tuổi. Như vậy, Thầy cũng tròn tuổi thọ. Thân mẫu con đi đến cõi đời này trước Thầy bốn năm, và cũng “đi về” trước Thầy bốn năm, vẫn với tuổi thọ chín mươi hai. Qua đó, con bỗng thấy có chút ngộ nghĩnh cho sự trùng hợp này.


Thầy đi vào cuộc đời này vào ngày chớm Đông -24/11/1925- , và “đi ra” cũng vào lúc chớm Đông. Thầy ơi!


“Thầy về với Chúa yên vui.

Giữa mùa Đông giá, ngậm ngùi riêng con”.


Dù không gặp Thầy gần năm mươi năm, con vẫn nghĩ Thầy vẫn như ngày xưa ở Đại học Sư phạm Saigon lúc Thầy bốn lăm, con hai mươi mốt. Bây giờ con bẩy mươi mốt, Thầy chín mươi lăm. Con mong ước Thầy ở chốn “BÌNH YÊN”, Thầy đang ở “NƯỚC TRỜI” ngàn đời yên bình.

Dù Thầy đã đi xa, nhưng con nghĩ ở nơi nào đó, Thầy đang nghe được tiếng lòng con, vì “Thác là thể phách, còn là Tinh Anh” (Kiều-Nguyễn Du).


Thầy ơi!

Hoàn cảnh ngửa nghiêng, vận nước nổi trôi, Thầy trò ta đã tạm quên “nghề văn, nghiệp bút”. Con cũng đã buông trôi theo phận người mấy mươi năm chìm nổi ở xứ người, chừng ngó lại tuổi già “chim bay mỏi cánh”. Mà có sá gì thân con? Thầy là sa mạc mênh mông, con chỉ là hạt cát tủi hờn. Thầy là biển lớn thênh thang, con chỉ là giọt nước long lanh, ngậm ngùi cho duyên số. Con vẫn nghĩ Thầy vẫn ở bên bao bạn hữu, bên học trò mà hiện giờ chúng con đã “Ngất dặm mù khơi, thấy trăng mà thẹn những lời non sông” (Kiều-Nguyễn Du). 


Thầy là “Lê có Mắt”, Thầy cũng là “Lê có Tai”, nghĩa là Thầy là Văn nhân, nghệ sĩ. Lòng mê say văn chương Việt, văn chương Hán-Nôm, cũng như mê say cung đàn, giọng hát, có khi nào Thầy cảm thấy mỏi mệt muốn tạm dừng chân!?


“Khi bức màn buông, danh vọng hết

Người về lòng rũ sạch sầu thương

Người vào cởi áo, lau son phấn

Trả cả vinh hoa, lẫn đoạn trường.”

 (Sân Khấu-GS Hoàng Như Mai)


Vâng, đúng thế Thầy ạ! Thầy có đủ hết mọi cung thương, nhưng Thầy đã ra đi thanh thản “phủ định sạch trơn” những phiền lụy của cuộc đời. Như Thầy đã trả lời Giáo sư Nguyễn Văn Sâm : “Bây giờ moa quên hết mọi chuyện rồi toa… Moa bây giờ thấy lòng mình là MÂY”. Và Giáo sư Nguyễn Văn Sâm đã khẳng định : “Con người đạt đến độ buông thả rốt ráo thì lòng mình là MÂY, chứ không phải NHƯ MÂY”… Ôi! Bao người đạt đến cái tâm LÀ MÂY đó!!? 


Hiện giờ, dù lòng con trĩu nặng sầu thương, giống như cô học trò nhỏ Vũ Thị Gio Linh đã viết bài thơ “Thưa Thầy, Con Đi” trên đặc san Xuân Gia Long năm 1973, để nói với Thầy :


“Thôi, thưa Thầy con đi

Năm cuối cùng đã hết

Những giọt buồn thế hệ

Đưa tiễn những người đi

Bây giờ là Xuân cuối

Thôi, thưa Thầy con đi”.

Con đã đi vào cuộc sống trần thế nhọc nhằn từ khi rời Đại học Sư phạm, mới đó đã năm mươi năm. Dù chưa một lần nào gặp lại Thầy sau 1973, nhưng con vẫn nghĩ có Thầy trong tâm tưởng. Con đã học được chữ TÂM từ nơi Thầy giáo cũ, nên cả đời tâm niệm “Đâu dám xa rời chữ TÂM” (Kiều).


Con thường hay ngắm trăng giữa trời đất bao la vào những đêm rằm hoa đăng mở hội trên trời. Giờ đây, con phải hướng tầm mắt mình để ngắm mây trời nhiều hơn, vì Thầy chính là MÂY. Thầy “Lê có Mắt”, “Lê có Tai” bây giờ LÀ MÂY, MÀ MÂY THÌ CHỈ CÓ, VÀ CHỈ Ở TRÊN TRỜI.


Song Lam.

Chớm Thu 9/2020.

Cherry Hill, NJ. 

 

     

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.