Hôm nay,  

Nha Trang-Những Khi Nào Nhớ Lại

29/09/202009:20:00(Xem: 4317)

                                                                    

Mỗi lần nhớ lại Nha Trang, tôi nhớ bài thơ của Hồ Ngạc Ngữ: 

KÝ ỨC NHA TRANG 

"Những khi nào nhớ lại/ Nha Trang vẫn đẹp dịu dàng như một bài thơ tình/ Những con đường đẩm hương sứ trắng/ Sóng bạc đầu của Thức như tiếng đàn guitar của anh/ Biển của Hiền êm đềm trăng xanh/ Tiếng piano nhả những cơn sóng nhỏ Sonata 14.../ Trong cái nhìn mơ màng của Sa/ Đôi kính của Jean Paul Sartre cũng bị mờ đi trong khói sóng.../ Những khi nào nhớ lại/ Tôi sẽ nhớ nhiều đến những người bạn ở Nha Trang.../ Và tôi sẽ nhớ em như nhớ biển/ Dịu dàng nồng nàn như hương tóc rối.."(*)

Nha Trang có nhà thơ Hồ Ngạc Ngữ, có nhạc sỹ Minh Kỳ, có biển xanh, bãi cát trắng, có nắng ấm đủ hâm nóng ký ức mỗi khi ta xa và nhớ về Nha Trang. Nha Trang có những hải đảo, có đảo Hòn Yến án ngữ  từ ngoài khơi vịnh Nha Trang. Mỗi khi chiều vàng đến, những du khách chiêm ngưỡng những đỉnh núi trong vịnh Nha Trang đươc thấp sáng bằng nắng quái chiều hôm.  Có cậu hoc trò của trường Võ Tánh Nha Trang, Nguyễn Đức Sơn, đã từng qua những đêm trăng ở đây. Với một tâm hồn thi nhân lãng man, khi ra về anh còn ghi lại niềm tiếc thương cho kiếp sống vô thường của con người truóc sự vĩnh hằng của thiên nhiên bằng hai câu thơ lục bát:

                                          "Mai sau này chỗ tôi nằm-

                                       Sao rơi lạnh lẽo, âm thầm biển ru..."

Nha Trang ngày nay tự hào là thành phố của du lịch. Nhưng chính người Nha Trang đã phải ngỡ ngàng khi thấy các nhà đầu tư du lịch không biết bảo tồn cái vốn quí  của phong cảnh hữu tình của thành phố. Cái sa mạc đầy tham lam trong tâm hồn của cá nhà đầu tư đã không thương tiếc tàn phá thiên nhiên Nha Trang khi họ nhân danh phát triển.


Con đường Duy Tân doc theo bờ biển Nha Trang, đẹp như bài thơ không còn nữa. Có ai biết thương tiếc khi tên con đường này đổi thành đường Trần Phú, tràn ngâp những Restaurants, những Hotels thời thượng cao ngất 30-40 tầng lầu, đan xen với những trung tâm- VIP-LUXURIOUS FOOT MASSAGE- những chỉ dẫn cho thấy kiếp sống lầm than của thời chiến tranh vẫn lén lút tồn tại đâu đó. Khuông mặt trữ tình của đường phố  Nha Trang đã không còn nữa.  Chỉ còn những quán ăn, những quán Cà phê vỉa hè, vụ lợi,  mưu sinh...

Dưới lớp trầm tích của lich sử, ngày nay người Nha Trang vẫn còn niềm kiêu hãnh về cổ thành Diên Khánh, một kiến trúc quân sự kiên cường tuy cổ kính đã đứng vững trước thời gian qua  gần 225 năm lịch sử. Thành được chúa Nguyễn xây dựng năm Quí Sửu-1793- nhằm để phòng thủ án ngữ và bảo vệ  vùng đất Nam Trung Bộ. Thành Diên Khánh cách thị xã Nha Trang chừng 10 cây số, bây giờ còn lại cửa Đông và cửa Tây. Trên cửa thành đều có lầu. Sau 225 năm một phần thành vẫn còn nguyên vẹn măc dầu trong quá khứ, tướng của Tây Sơn, Trần Quang Diệu, nhiều lúc đánh phá thành này nhưng đều thất bại. Ngày nay người dân Diên Khánh vẫn còn những đêm nghe tiếng vó ngựa của quân chúa Nguyễn và tiếng chân của đàn voi của tướng Trần Quang Diệu, đi  rầm rập.   

Cách cửa Tây thành Diên Khánh chừng vài trăm mét có Nhà Thờ Hà Dừa rất đẹp, một trong những nhà thờ cổ kính còn sót lại sau chiến tranh. Nội thất của Nhà Thờ Hà Dừa theo lối kiến trúc Việt. Ghế ngồi của các Thầy Giảng là ghế bành chạm khắc hoa văn theo lối xưa của Việt Nam. Những trụ cột cao vút của Nhà Thờ bằng gỗ lim đánh bóng màu huyết dụ, tuyệt đẹp, chứng tích của một thời giao lưu văn hóa Việt Pháp. Tôi đã từng đứng bên trong ngôi giáo đường của Nhà Thờ Hà Dừa, nghe thời gian theo từng hồi chuông đổ...

Tôi trở lại Nha Trang vào năm 2012, sau hơn 40 năm tha hương, tôi không thể tìm lại con đường đất đã từng dẫn tôi đến ngọn đồi có chùa Hải Đức. Còn đâu bệ đá sau chùa mà tôi từng ngồi vào giờ cầu-kinh-chiều. Từ bệ đá ấy, tôi nhìn con sông chảy sau Chùa, với những bè rau muống trải dài đến chân cầu Hà Ra và Xóm Bóng, quê hương của " Kẻ Thừa Tự Ông Nam Hải-Le Fils De la Baleine- tác phẩm thời danh của nhà văn Nha Trang- Cung Giũ Nguyên- năm 1956, viết bằng tiếng Pháp, đươc dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, được nhân loại ngưỡng mộ, đề cao, vào những năm 50-60 của thế kỷ trước. 

Không biết trong đám du khách đến Nha Trang hôm nay, có ai biết được và chứng kiến những sự kiện lịch sử vừa kể ở trên, trước khi họ rời khỏi Nha Trang?../. 
 

Đào Như

BS Đào Trong Thể

Chicago

Sept.29-2020

Ghi Chú

(*) Ký Ức Nha Trang-của Hồ Ngạc Ngữ,  Phổ biến trên báo VĂN số 25 ngày 12-3-1993 


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.