Hôm nay,  

Huế "Của Ngoại"

24/10/202010:54:00(Xem: 5262)

Dien tich rung bi mat o VN*

Đọc xong bản tin trên RFA về trận lũ lụt tại thủy điện Rào Trăng 3, thuộc Hương Điền, Hương Khê, Thừa Thiên, tôi lặng người trong nỗi xót xa vô vàn! Không xót xa sao được khi mà Huế “của Ngoại” tôi – thuộc tỉnh Thừa Thiên – cũng chìm sâu trong biển nước!


Không nói được tiếng Huế, nhưng tôi đã âm thầm thương yêu Huế từ khi tôi vừa bắt đầu học đánh vần – nhờ giọng nói dịu dàng, thiết tha của bà Ngoại và Má tôi. 

Là đứa cháu đầu tiên của bà Ngoại cho nên tôi được Ngoại cưng lắm. Biết được cưng, chìu, lúc nào tôi cũng nhõng nhẽo với Ngoại. Khi nào sự nhõng nhẽo của tôi “vượt quá giới hạn”, bị Ba Má tôi la rầy, tôi cũng thụng mặt, môi trề ra, nước mắt rưng rưng thì Ngoại vỗ về tôi rồi lén Ba Má tôi, giúp tôi có được những gì tôi muốn. Giúp tôi xong, thấy tôi vừa quẹt nước mắt vừa cười “toe toét”, Ngoại dí nhẹ ngón tay trỏ vào trán tôi vừa cười vừa “mắng”:

-Cại mặt mi là cại mặt “tò vè”!

-Mặt “tò vè” là cái mặt chi mà Ngoại cứ nói với con hoài vậy?

-Cái mặt “tò vè” là cái mặt “tò vè” chứ có chi mô mà không hiểu.

Tôi hỏi Ba Má tôi về hai tiếng “tò vè”, Ba Má tôi không biết; vậy là tôi nghĩ Ngoại rất thông minh, có vốn ngữ vựng riêng.

Khi tôi hơn mười tuổi, thấy Ba tôi bắt đầu dạy tôi học nhạc, Ngoại dặn dò:

-Con học đờn thì học mà lớn lên con không được “làm” ca sĩ, nhạc sĩ, nghe chưa?

-Con thích “làm” ca sĩ mà!

-Không được mô! Ba Mạ mi mà cho mi “làm” ca sĩ là tau từ Ba Mạ mi liền.

Ba tôi cười:

-Mạ đừng lo! Không bao giờ con để con của con trở thành nghệ sĩ chuyên nghiệp đâu!

Khi tôi trở thành thiếu nữ, được nhiều thanh niên để ý, Ngoại dặn dò Ba Má tôi:

-Gả hắn cho ai thì gả, đừng gả hắn cho người Huế, nghe!

Tôi ngạc nhiên:

-Ngoại là người Huế mà tại sao Ngoại không thích người Huế?

-Ai nói với mi tau không ưa người Huế? Con nhỏ ni nói chuyện nghe “dị òm”!

Tôi lại nghĩ hai tiếng “dị òm” là từ ngữ riêng của Ngoại. Tôi hỏi:

-Nếu Ngoại thương người Huế tại sao Ngoại không muốn con lấy chồng người Huế?

-Ui chao, con nhỏ ni dại “dễ sợ”! Lấy chồng Huế mi phải làm dâu bà già chồng người Huế chanh chua mà còn bị mấy “ông chú mụ o” nhọn mồm xỉa xói nữa. Biết chưa?

Người Việt có câu: “Ghét của nào Trời trao của đó”, quả thật ứng nghiệm vào đời tôi. Chồng tôi – Minh – người Huế. 

Sau đám cưới, Minh đưa tôi về Huế để “ra mắt” họ hàng bên chồng. 

Hôm đãi họ hàng tại nhà, thấy tôi mặc áo dài, sẵn sàng “ra mắt” họ hàng, Bố của Minh gọi tôi đến. Với tâm trạng rất ngại ngùng và lo sợ, tôi vừa nghĩ đến lời “cảnh báo” của Ngoại vừa bước về phía Bố vừa nhìn Minh rất nhanh, như “cầu cứu”. Không ngờ, khi tôi đến cạnh, Bố cười, hỏi:

-Răng con không trang điểm?

-Dạ, Ba Má con không cho con trang điểm. Con quen rồi.

-Không được! Con có chồng rồi, con nên trang điểm phơn phớt thôi, cho ra vẻ thiếu phụ.

Tôi đang “ngớ” ra thì Mạ của Minh vào phòng, lấy thỏi son của Mạ, đưa cho tôi, bảo:

-Con dùng thử màu ni coi có hợp hay không; nếu không hợp, con nói Minh đưa con ra tiệm gần nhà mua màu khác, con hỉ! Mau đi kẻo khách tới chừ!

Hết nhìn Mạ rồi nhìn Minh, tôi tự hỏi: “Bà Mẹ chồng Huế như vầy mà chanh chua cái nỗi gì!”

Những ngày sau đó Minh dùng Vespa của người em, đưa tôi đi khắp mọi ngõ ngách của Huế. Huế xưa hơn tuổi đời của Ngoại rất nhiều. Huế trầm mặc, thanh lịch như vóc dáng cao sang, đài các của Má tôi. Huế êm đềm, tĩnh lặng như mặt Hồ Xuân Hương, Dalat – nơi tôi chào đời. Huế có sức quyến rũ âm thầm nhưng mãnh liệt mới có thể chinh phục được người có cá tính cứng rắn như tôi. 

Nếu George Cory và Douglass Cross đã để lại trái tim tại thành phố San Francisco – bằng ca khúc "I Left My Heart in San Francisco" – thì tình thương tôi dành cho Huế cũng không khác chi tình thương tôi dành cho Ngoại và Má tôi.

Vì đã dành cho Huế lòng thương yêu cao vời và thiêng liêng như vậy, cho nên, Tết Mậu Thân – năm 1968 – nghe tin Huế bị cộng sản Việt Nam (csVN) xé Hiệp Ước đình chiến, xua quân về tàn sát người dân và phá tan di tích lịch sử, Ngoại khóc, tôi khóc theo. Ngoại bảo Ba Má tôi mua vé xe lửa cho Ngoại về thăm Huế, Má tôi cản:

-Về mần chi? Gia đình mình còn ai ngoài nớ nữa mô mà Mạ đòi về?

-Khổ chi lạ! Không còn người sống thì còn người chết! Mạ phải về vì nghe nói “tụi hắn” – Việt cộng & csVN – giết cả mấy ngàn người, không có chỗ chôn. Mạ phải về để “chịu tang chung” với Huế, con ơi!

-Mạ về ngoài nớ, thấy Huế tang thương, đổ nát, Mạ khổ thêm chứ Mạ làm được cái chi mà đòi về?

Ngoại trả lời không được, đành nhổ nước cốt trầu vào “ống nhổ”, rồi khóc! 

Khi Minh và tôi đem các cháu đến gửi, nhờ Ngoại và Má tôi trông giùm để Minh và tôi về Huế đưa Mạ và các em của Minh vào Saigon – thời điểm đó Bố của Minh không còn nữa – Ngoại thủ thỉ với tôi:

-Con! Nghe nói “tụi hắn” biến Huế thành bình địa rồi, Ngoại đau lòng quá, chỉ muốn về, khóc với Huế “của Ngoại” một lần rồi có… chết Ngoại cũng cam lòng! Con nói Ba Mạ con cho Ngoại về thăm Huế “của Ngoại” đi, con!

Ngoại, Minh và tôi về Huế bằng đường hàng không; vì Ba Má tôi ngại, nếu chúng tôi đi xe lửa, nhỡ xe lửa bị Việt cộng chận thì sẽ nguy hiểm cho Minh.

******

Huế “của Ngoại” tan hoang, đổ nát, chỉ còn hằng hà sa số ngôi mộ mới chôn và rất nhiều ngôi mộ tập thể cùng nước mắt và tiếng oán than thấu Trời! 

Sự tan thương của Huế gợi lại trong hồn tôi hình ảnh những ngôi đình làng – tại Sơn Tịnh, Quảng Ngãi – bị bộ đội cụ Hồ đập phá; vì Việt Minh & csVN kết tội chùa, đình làng là biểu tượng của phong kiến. Nhiều mái tranh phựt cháy vì bị Việt Minh đốt. Rất nhiều người dân bị đuổi ra khỏi nhà để bộ đội cụ Hồ giật sập nhà, thực hiện chính sách “bần cùng hóa nhân dân” và “tiêu thổ kháng chiến” do đảng csVN chủ xướng, trong thời kỳ Ba tôi đảm nhận chức vụ Trưởng Đoàn Văn Nghệ Liên Khu V. Thế mà, sau đó, người dân và trẻ em trong làng Sơn Tịnh phải “học tập” để nghe cán bộ tuyên truyền một cách xảo trá rằng: Thực dân Pháp đã càn quét, bắn phá, đốt cháy xóm làng! 

Chính sự xảo trá này của csVN là động lực chính thúc đẩy Ba tôi – cũng như nhiều trí thức miền Nam – ly khai Việt Minh, trở về “vùng bị chiếm”.

Từ ngày trở về “vùng bị chiếm”, tôi cứ tưởng chiến tranh và bom đạn đã rời xa tôi; nhưng không! Theo Wikipedia – được csVN tài trợ và chi phối – đã xác định: “…2 giờ 33 phút ngày 30-1-1968, pháo binh Quân giải phóng đồng loạt bắn phá các mục tiêu địch ở khu Tam giác, khu Phan Sào Nam, Phú Bài, Đông Toàn, Đông Ba, mở đầu cho tổng tiến công vào Nội đô Huế. Sau loạt pháo mở màn, lực lượng quân Giải phóng trên hai hướng cùng lúc đánh vào 40 mục tiêu trong và ngoại thành Huế…”

Đấy, đoạn văn trích dẫn từ Wikipedia đã xác định một cách rõ ràng: “…pháo binh Quân giải phóng đồng loạt bắn phá các mục tiêu địch {…} mở đầu cho tổng tiến công vào Nội đô Huế…” Thế thì Việt Nam Cộng Hòa hay csVN xâm phạm Hiệp Định ngưng chiến Tết Mậu Thân? Thế mà câu tiếp theo, Wikipedia lại đổ tội cho Mỹ: “… Theo thống kê, sau 25 ngày chiến sự, 80% nhà cửa ở Huế đã bị bom đạn Mỹ phá hủy, hàng ngàn thường dân cũng chết trong các cuộc giao tranh.[10]

Bằng vào thời gian dài tháp tùng nhiều cuộc hành quân hỗn hợp trên sông rạch, tôi được biết chính xác: Cùng với chiến thuật “biển người” đã được csVN thực hiện từ thời Điện Biên Phủ, Việt cộng & csVN thường áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung” – như csVN & Việt cộng đã áp dụng tại Huế năm Mậu Thân: Pháo kích ào ạc trước rồi tấn mới tấn công – và chiến thuật “xa luân chiến”. Thế thì ba chiến thuật dã man này và mã tấu của Viêt cộng & csVN không có hiệu năng giết người hằng loạt và gây hỏa hoạn hay sao mà Wikipedia chỉ đổ tội cho bom đạn của Mỹ, trong trận Tết Mậu Thân? 

Năm Mậu Thân, thấy Huế “của Ngoại” tiêu điều, xơ xác bao nhiêu tôi càng thương nhớ và luyến tiếc nét mỹ miều, diễm lệ của Huế dạo tôi về “ra mắt” nhà chồng bấy nhiêu! Tim tôi thắt lại, chỉ biết âm thầm quẹt nước mắt. Mắt của Minh cũng đỏ rực! Đó là lần đầu tiên tôi thấy Minh – một sĩ quan rất “ba gai” – không thể đè nén được niềm xúc động! Riêng Ngoại, sau khi nghe nhiều nạn nhân ở Huế kể lại, Ngoại khóc ròng!

-Chao ơi! Nghiệt chi mà nghiệt dữ ri, Trời! Bộ đội ông Hồ “đổ vạ” là “thằng” Tây, “thằng” Mỹ đô hộ nước mình; rứa mà từ khi Cha sinh Mạ đẻ đến chừ có khi mô Ngoại thấy “thằng” Tây, “thằng” Mỹ kéo quân về giết hại dân mình như bộ đội ông Hồ xua quân về đánh khắp miền Nam rồi chém giết mọi người trong thành phố Huế như lần ni! Trời ơi là Trời! Huế “của Ngoại” mô rồi? Huế “của Ngoại” không còn nữa thì Ngoại sống mần chi, con ơi!

Tôi chỉ im lặng, khóc!

Năm 1995, tôi về Việt Nam thăm Mạ của Minh đang bệnh. Khi về kinh tế mới thăm gia đình, thấy Ngoại, tôi khóc! Ngoại ốm tong ốm teo, già quắt già queo. Ba và các em trai của tôi đi “cải tạo?” về đều bị bệnh, sức khỏe sa sút nhiều, không thể lao động mưu sinh; tiền tôi gửi về giúp chưa đủ chữa bệnh cho Ba và các em trai của tôi. Má tôi không có tiền mua trầu cho Ngoại; chỉ mua được vài trái cau khô. Ngoại  nhai vỏ cau khô cho đỡ thèm! Tôi hỏi:

-Ngoại muốn về thăm Huế không, con đưa Ngoại đi?

-Huế “của Ngoại” còn chi nữa mà thăm! Chừ Huế, Đà Nẵng là của Tàu rồi! Ra đường chỉ nghe tiếng Tàu chứ có tiếng Huế mô nữa mà thăm, con!

Nhớ lại lời than của Ngoại, tôi buồn quá, vào Google tìm tin tức về Huế để xem Huế “của Ngoại” thay đổi như thế nào. Tôi chỉ thấy đa số báo online đều viết về trận lũ lụt tại Huế “của Ngoại”.

Tôi biết, Huế “của Ngoại” mỗi năm thường bị lụt lội. Nhưng từ thời Pháp thuộc rồi Mỹ “đô hộ” Việt Nam cho đến năm 1975 tôi chưa hề thấy Huế “của Ngoại” chìm sâu trong biển nước hãi hùng và các thành phố lân cận khác thì núi đồi sạc lỡ, chôn vùi dân cư và chôn luôn – ông Nguyễn văn Man – thiếu tướng csVN!


Nhưng, từ sau khi csVN cưỡng chiếm được miền Nam thì những cơn lũ lụt kinh hoàng tiếp tục giáng xuống Huế và các tỉnh lân cận mỗi năm một tệ hại hơn. Tôi tự hỏi, có phải vì môi trường thay đổi cho nên Huế “của Ngoại” cũng bị ảnh hưởng hay không? Tôi nghĩ, có thể đúng phần nào; còn phần không đúng thì do đâu?


Vào Google tìm hiểu, tôi đọc được trên vietnambiz.vn – số ra ngày 06/01/2020 lúc 14:01 –  bản tin này: “Vượt mặt nhiều ngành hàng, năm 2019, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt mức cao nhất trong lịch sử.”

Và đây là bản tin trên Tuổi Trẻ online, ngày 15/05/2020 lúc 13:28GMT+7 “Xuất khẩu gỗ: Hàng ngàn container hàng bị tồn tại các cảng biển.{…} Từ giữa tháng 3 đến nay, các thị trường nhập khẩu đồ gỗ quan trọng của Việt Nam bị đình trệ, trong đó có Mỹ vốn chiếm 50% tổng giá trị xuất khẩu của ngành gỗ Việt và EU chiếm 10%.”

Không một tờ báo nào trong nước dám viết bất cứ điều gì về những dinh thự “hoành tráng” – thuộc “quyền sở hữu” của đảng viên đảng csVN, “đại gia” hay là của người từ Trung cộng sang – mà “nội thất” “khủng” của những dinh thự đó được trang hoàng bằng gỗ quý từ rừng núi Việt Nam. 

Những ai sống ở Mỹ, từng du lịch Âu Châu, Trung cộng hoặc Nam Mỹ – từ phi cơ nhìn xuống – đều thấy núi rừng ở Mỹ cũng như Âu Châu, Trung cộng hoặc Nam Mỹ xanh bạt ngàn và kéo dài đến vô tận. Thế thì tại sao Mỹ, Âu Châu, Trung cộng và Nam Mỹ không chặt cây rừng của họ để bán hoặc dùng vào kỹ nghệ mà Mỹ, Trung cộng và Âu Châu lại mua gỗ của Việt Nam? 
Còn Việt Nam, cả dãy Trường Sơn của Việt Nam – nơi từng che chở, bảo bọc cho đoàn quân csVN khát máu và man rợ – so với núi rừng bao la của Mỹ, Nam Mỹ, Trung cộng hoặc Âu Châu thì thấm vào đâu mà csVN lại xuất cảng sang Mỹ và Âu Châu số lượng gỗ cao đến như thế? Đã thế, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc còn gián tiếp cổ xúy cho hành động tàn phá núi rừng Việt Nam bằng câu này: “Việt Nam phải trở thành một trong các trung tâm sản xuất đồ gỗ của thế giới.” (Báo Lao Động – LĐO, ngày 08/08/2018.)

Tôi không muốn phân tích ý đồ của ông Nguyễn Xuân Phúc khi ông cổ xúy phá rừng Việt Nam. Nhưng tôi muốn khẳng định rằng: Chặt cây, phá rừng là một trong những nguyên nhân chính của những trận lũ lụt kinh hoàng tàn phá đồng bằng – trong đó có Huế “của Ngoại” tôi.


Sau khi đưa dân tộc Việt Nam vào hai cuộc chiến tàn khốc để thiu rụi mấy triệu người Việt – và đẩy ra biển cả mấy trăm ngàn người Việt – đảng và người csVN “hãnh tiến” trên hoan lộ và “ngủ quên” trong những kho vàng!


Thời Việt Nam Cộng Hòa, Ngoại tôi – một phụ nữ già yếu – nghe Huế bị hoạn nạn, chỉ muốn được về để “chịu tang chung” với Huế.


Bây giờ, Huế và miền Trung nước ngập đến mái nhà mà người dân vẫn chưa hề thấy bóng dáng cấp lãnh đạo csVN nào cả! Tại sao?


Tại vì ông Nguyễn Phú Trọng bận tham dự lễ thăng “quân hàm” và tặng hoa cho Thứ Trường Bộ Quốc Phòng Hoàng Xuân Chiến và Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam Lê Huy Vịnh! (Tuổi Trẻ online, 16-10-2020 lúc 14:31GMT+7). Và 50 đảng bộ trực thuộc trung ương bận tổ chức thành công đại hội nhiệm kỳ 2020-2025. (Theo Ban Nội Chính Trung Ương, 19-10-2020, lúc 16:18GMT+7).


Viết đến đây, tôi thấy bản tin của Minh Long, trên báo Trithuc VN, ngày 22 tháng 10-2020 câu này: “… Tổng cục Lâm nghiệp Việt Nam đã chỉ ra trong 4 năm từ 2016-2019, diện tích rừng bị thiệt hại đã lên tới 7.283ha (trung bình mỗi năm mất 2.430ha rừng).”


Thế mà, cũng trong bản tin của Minh Long, cùng ngày, trên TrithucVN, ông Nguyễn Quốc Trị – Tổng Cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp – khẳng định: “Nói lũ lụt ở miền Trung do phá rừng là không đúng”. 


Hỡi người csVN, ông Nguyễn Xuân Phúc và ông Nguyễn Quốc Trị! Hãy thức tĩnh, nhờ con cháu dịch câu này: “A nation that destroys its soils destroys itself. Forests are the lungs of our land, purifying the air and giving fresh strength to our people” – của Franklin D. Roosevelt, vị Tổng Thống thứ 32 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ – để hiểu và nhận thức được hậu quả tàn khốc của những gì mà người csVN đã, đang áp đặt và thực hiện trên quê hương Việt Nam và Huế “của Ngoại” tôi!


ĐIỆP MỸ LINH

https://www.diepmylinh.com/

* Hình của Huy Nguyên trên BBC - 22 tháng 10-2020

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.