Hôm nay,  

Nhập Dòng Chính

31/10/202011:45:00(Xem: 6240)

 

Giữa biển người mênh mông, sân nhà của đội Bravo đang cuồng nhiệt với trận đấu nảy lửa giữa Bravo và Panther. Cả sân như cái lòng chảo đầy ắp người, tiếng hò reo tán thưởng, tiếng huýt sáo rộn ràng tràn ngập cả sân. Paul N ngất ngây với cái cảm giác sung sướng cực độ, cơn hưng phấn làm cho Paul N thấy mình như nhập dòng chính một cách hoàn hảo, đảo mắt nhìn quanh Paul thấy chỉ có mình là có sắc vóc châu Á. Paul chợt liên tưởng mình như hạt cát vàng giữa mâm bột trắng, lác đác cũng có một nhúm hạt tiêu đen rải rác quanh đó. Từ lâu Paul N cố gắng nhập dòng chính thống, từ cách ăn uống, nói năng, từ cái nhún vai, xoè tay… tuy ăn theo kiểu dòng chính nhưng nước mắn thì không thể thiếu được, bữa ăn mà thiếu thì nhạt lắm. Hôm nay giữa sân bóng cà na này, Paul N thấy mình thực sự thuộc dòng chính thống rồi chứ không còn là dân nhập cư nữa. Đồng hương có mấy ai biết cái thú chơi hay coi môn bóng quốc hồn quốc tuý của xứ sở Cờ Hoa này? cùng lắm thì bọn họ chỉ đi shopping, đi biển, đi Việt Nam…là cùng. Bọn họ thật khác xa với mình, cái ý nghĩ ấy làm cho Paul N càng hãnh tiến hơn, Paul N cũng huýt sáo, hò hét khi có một cú quarter back hay một cú ném đẹp…

Ngồi cách Paul N. và con ghệ vài hàng ghế là một nhóm da trắng xăm trổ vằn vện, xỏ mũi, xỏ miệng, tóc tai bờm xờm, cơ bắp cuồn cuộn. Bỗng nhiên trong đám có đứa hét to:” Ching chong”, rồi cả đám cười hô hố. Có đứa lấy hai tay kéo đôi mắt xếch lên để chế giễu, thậm chí có đứa còn hét to:” flat face, ugly noise”… tụi nó nhìn Paul như thể lần đầu thấy người Á châu vậy.  Paul N đỏ cả mặt, cơn giận bốc lên ngùn ngụt. Con ghệ thấy thế nắm tay Paul ghì xuống. Cái từ miệt thị người Tàu mà bọn kỳ thị vẫn thường nói, tụi nó đâu có phân biệt được đâu là Tàu, đâu là Việt, dẫu có phân biệt được thì chúng nó vẫn kỳ thị châu Á chứ đâu chỉ riêng người Tàu. Bàn tay Paul nắm cứng laị, cắn chặt răng chứ không dám ho he tiếng nào. Paul mà cự cãi gây hấn với cái đám ấy, tuị nó bề hội đồng thì về nhà má cũng không nhận ra. Amanda A. , con ghệ của Paul đứng dậy hét to:

- Mấy người làm ơn lịch sự một chút có được không?

Đám thanh niên hippi ấy cười rộ lên tỏ vẻ châm chọc và khiêu khích, một thằng trong bọn nói với Amanda A.

- Mày không thấy bọn tao lịch sự đầy người sao? có chỗ nào nữa để không lịch sự?

Amanda A. chưa biết nên nói gì thì một thằng khác tóc như bờm sư tử chu mỏ vểnh môi cười cợt khiếm nhã:

- Này cô em xinh đẹp, em cảm nhận vị gì khi gã châu Á đó hôn?

Amanda A không nhịn được nữa:

- Đó không phải việc của mày, con bà mày, tuị mày đi chết đi!

Paul tức giận ghê gớm nhưng bất lực chứ không thể làm gì được, còn đang tiến thoái lưỡng nan thì dưới sân thằng Micheal V ném một quả cà na tuyệt vời, với cú touchdown này thì đội của Micheal V lấy trọn sáu điểm. Cả biển người ủng hộ đội nhà đứng dậy huýt sáo, vỗ tay, reo hò tán thưởng như làn sóng dậy. Paul cũng bị cuốn hút vào cơn phấn kích của cú ném ấy mà quên đi chuyện bị kêu:” Ching chong”. Amanda A. cũng hưng phấn theo làn sóng cuồng nhiệt của mọi người nên không còn để ý đến bọn cổ đỏ kỳ thị kia.

Cặp vé này Paul N đặt mua từ mấy tháng trước, tốn gần hết tháng lương chứ ít ỏi gì, dù đó mới chỉ là vé hạng B. Những vé hạng A, A+ thì còn mắc kinh khủng, chẳng dám rớ tới. Paul N. mê môn banh cà na này từ hồi còn học phổ thông, cũng như những cư dân khác của xứ sở này,  banh cà na, hamburger và Coca cola là thứ không thể thiếu được trong cuộc đời. Đội banh mà Paul thích nhất chính là đội Bravo và đội Eagle. Paul cũng bắt cá độ nhưng chỉ chơi chút chút chứ hổng chơi lớn như thằng George Le. Thằng bạn nối khố của Paul, nó có máu liều, chơi lớn, có lần nó thắng mấy mươi xấp, sau đó ăn chơi du hí mát trời ông địa luôn. Thế nhưng cũng có lần tổ trác, nó phải bán tiệm Nails để trả nợ. Đám bạn học cùng trường Clayton High school ngày trước, đứa nào cũng cá độ cả và hầu hết đều nếm mùi đau thương, lúc thắng lớn thì ăn chơi thả giàn, nhưng cũng có lúc trong nhà bank không còn một xu, thậm chí phải bỏ đi xuyên bang để trốn nợ.

Paul N cũng như đám bạn này, dù không nói ra nhưng vẫn tự hào mình hoà nhập như người bản xứ, thuộc dòng chính, cao hơn những đồng hương đến sau. Lúc nào cũng nhìn người đến sau còn “chưa sạch phèn” nên chưa thể nhập vào dòng chính được. Dĩ nhiên là Paul cũng như mấy đứa bạn kia khi dễ cả tụi Mễ làm phu cầu đường, tụi lao động chân tay... Cả nhóm vừa ghét kỳ thị nhưng chính bản thân thì kỳ thị cũng không kém ai, hễ mở miệng ra là: tụi xì, tụ Mễ, rệp… làm biếng, ăn bám. Cái tâm lý vừa tự tôn laị vừa tự ti, đôi khi Paul cũng thấy mình vô lý nhưng cái ý nghĩ mình đã nhập dòng chính thống vẫn làm cho Paul lâng lâng hãnh diện.

Hôm nay ở sân banh cà na này, Paul bị một lời kỳ thị nặng làm cho bao nhiêu cao hứng tụt xuống thê thảm. Paul thầm chửi:

- F…ck! đừng nghĩ tụi bay ngon, chẳng qua tuị bay đến xứ này trước thôi!

Paul còn đang tư lự thì con ghệ vỗ tay reo lên “Yeah!” cả sân laị đứng dậy hò hét lần nữa, thằng Micheal V ném thêm một cú đẹp tuyệt cú mèo luôn, với touchdown này nữa thì đội Bravo nắm chắc phần thắng, việc này cũng đồng nghĩa là Paul sẽ nhận được ngàn rưỡi tiền thắng cược. Paul ôm hôn con ghệ cái chụt, mấy đứa Mỹ ngồi gần bên húyt sáo tán thưởng nhưng cũng có vài đứa vẻ mặt thiếu thiện cảm thấy rõ. Con ghệ của Paul tên Amanda A. hai đứa cặp cũng hơn năm rồi, lúc mới quen thằng Joshua J. đã cảnh báo:

- Gái Mỹ nhu cầu cao, đòi hỏi dữ lắm, cả tình dục lẫn tiền bạc,  mầy đáp ứng không nổi là nó bỏ ngay!

Paul cũng nghe điều này nhiều rồi, tuy biết không phải ai cũng vậy nhưng ban đầu Paul cũng có ý nghĩ như thế với Amanda A. và Paul cũng không có ý định cặp lâu dài, không ngờ qua một thời gian thì Paul thương thật luôn và Amamda A. cũng thương Paul, Amanda A. cũng chẳng đòi hỏi gì nhiều như những lời đồn đại, tất nhiên những việc chi phí ăn chơi thì Paul phải chi cũng là lẽ đương nhiên, đàn ông trai tráng phải ga lăng, nhất là ở cái xứ này. Trên đời này mấy ai cua gái, tán gái, cặp bồ mà không phải chi? chỉ trừ những anh đào mỏ mới để phụ nữ bao mình. Lần đầu Paul dẫn con ghệ đi ăn bún mắm, nó chun mũi kêu trời, “ Oh, my God! cái mùi kinh khủng thế, sao mà ăn được?” ấy vậy mà dần dà sau đó Amanda A. cũng ăn được và còn ăn bạo như Paul, món nào cũng quất sạch trơn: bánh mì, phở, bún bò, gỏi, sầu riêng… thậm chí ngồi lể ốc mà hút sành điệu như những cô gái Việt ăn hàng. Có lẽ món nào cũng chơi nên chẳng mấy chốc đẫy đà phì nhiêu thấy rõ. Amamda A. laị phải uống thuốc diet. Paul trêu nó:

- Em ăn xong rồi uống thuốc diet để xổ hết, vậy thì cũng như không.

Con ghệ cười ửng đỏ đôi má đào đẹp đến mê hồn.

- Em cũng biết vậy nhưng không ăn thì thèm chết, còn ăn mà hổng uống thuốc diet thì em sẽ thành cái thùng barrel.

Thế gian này nhiều chuyện buồn cười thật, như cái vòng lẩn quẩn không thoát ra được, giờ chuyện con ghệ của thằng Paul cũng lẩn quẩn không kém. Amanda thấy món nào cũng quất cho khoái khẩu, quất xong phải uống thuốc diet để xổ đi, không chỉ mỗi Amanda mà rất nhiều những người như thế. Những người nhạy bén lập tức nhảy vào cuộc, họ làm ra những sản phẩm ít năng lượng để phục vụ cho những người như Amanda Những món ăn hoặc uống kiêng khem này hầu như không có năng lượng, nó giúp cho người ta ăn cho đã thèm mà không sợ bị béo phì.

Năm rồi Paul dẫn con ghệ đi Việt Nam chơi, Paul chỉ nói tiếng Anh nên nhiều người không biết anh ta dân gốc mít, nhờ đó Paul nghe được những chuyện mắc cười lẫn chuyện tức muốn chết. Khi nhận phòng, tay lễ tân còn trẻ và có vẻ láu cá, y liếc nhìn con ghệ của Paul rồi quay qua xì xầm với cô bạn tiếp viên:

- Con ghệ bốc lửa quá, hổng biết thằng châu Á này có chịu nổi không?

Paul nghe thế thì thích thú và hãnh diện về con ghệ da trắng đẹp bốc lửa của mình. Paul giả vờ như không nghe biết gì. Tối đó Paul dẫn con ghệ đi dạo chơi loanh quanh, đi ngang qua một tiệm massage ở khu phố tây, trước cửa tiệm có nhiều cô gái ngồi chờ khách, bọn họ nhìn Paul và Amanda với ánh mắt rất thô lỗ, một cô đanh đá:

-  Thằng châu Á này chắc có tiền, con phò này cặp nó để đào mỏ!

Một cô khác xen vô:

- Mấy con Tây dâm thấy mồ, thằng châu Á chịu sao thấu, nó quần cho một đêm là hết xí quách.

Nói xong cả bọn cười ngả ngớn vô cùng trâng tráo và trơ trẽn. Paul nóng mặt nhưng giả đò không nghe biết gì, nắm tay Amanda kéo đi thật nhanh. Amanda tuy không hiểu tiếng Việt, không biết mấy cô đó nói gì nhưng qua cái cách nhìn và thái độ đó thì Amanda hiểu là không tốt đẹp gì. Amanda hỏi Paul:” Có phải bọn họ nói xấu em?” Paul gạt đi:

- Em đừng bận tâm làm chi, những lời không ra gì của những người không ra gì!

Paul vừa tức cười vừa khó hiểu lòng tự nhủ:” mình với họ không quen biết, chẳng va chạm, khi không laị buông lời xấu xa đầy ghen tức đố kỵ, cái tâm của bọn họ sao nhỏ nhen quá. Bọn họ thật kỳ cục, cứ thấy da trắng thì xun xoe muốn quàng làm họ, còn gặp đồng hương, đồng chủng  thì cạch ra mặt”

Xứ này là cả một thế giới lạ lùng, nhiều điều thú vị nhưng cũng đầy ắp điều kỳ quái và mới lạ với Amanda. Cô mê tít hoa quả nhiệt đới, thức ăn đường phố, lạ một điều là Paul ăn vặt thì tiêu chảy té re trong khi ấy Amanda ăn không bỏ món nào mà chẳng bị gì cả. Amanda cứ mắt tròn mắt dẹt, miệng chữ o liên tục :” Oh, my God” nhìn những dòng xe máy cuồn cuộn trên đường, những em bé bán vé số, xin ăn…cô cứ hỏi:” tại sao con nít không được đi học mà phải đi làm?” nào là:” Người già không có an sinh xã hội sao?” rồi thì “tiếng ồn kinh khủng vậy sống sao nổi?”Paul cười:

- Em thấy đấy, họ vẫn sống khoẻ, vẫn tưng bừng cả ngày lẫn đêm kia mà!

Amanda lắc đầu không sao hiểu nổi. Paul dắt cô ấy vào một thương xá lớn, ở đấy có đủ các nhãn hiệu danh tiếng: LV, Prada, Gucci, AX, CK…nhìn giá tiền trên món đồ, Amanda lấy tay bụm miệng thốt:

- Oh, my God! Giá mắc kinh khủng mà những món đồ ấy vốn đã không còn là hàng thời thượng nữa!

Paul bảo:

- Những người giàu mới nổi khá nhiều, bọn họ mua không tiếc tiền đâu em, tuy chẳng sành điệu, thậm chí khoác lên người thì đồ ra đồ người ra người nhưng bọn họ cũng không biết đâu.

Hai tuần qua nhanh, kỳ nghỉ kết thúc, Paul và Amanda quay trở laị Mỹ, về sân bay nhà thì thấy ti vi đang phát trực tiếp trận đấu giữa Eagle và Dolphin. Paul lập tức bắt đội Eagle và nói:

- Hy vọng thắng sẽ lấy laị cặp tiền vé máy bay của kỳ nghỉ này!

Tháng này hãng tổ chức kỷ niệm cho những người làm việc được mười năm. Paul và ba người châu Á hai người châu Phi được nhận một cái kỷ niệm chương, trên ấy ghi dòng chữ:” Chúng tôi cảm ơn bạn đã làm việc chăm chỉ trong mười năm qua, chúng tôi trân trọng sự đóng góp của bạn”. Cả bọn cười cười nói nói chụp hình chung với ban quản trị nhưng chẳng ai vui. Paul thì thầm với con bạn Lào:

- Con mẹ nó, năm trước hai đứa da trắng kỷ niệm mười năm được thưởng cái rolex và dây chuyền nạm kim cương, năm nay bọn mình chỉ có mỗi cái kỷ niệm chương!

Con nhỏ Lào cười méo xẹo cái miệng:

- Bọn nó là dòng chính thống, tụi mình là dân nhập cư, mầy hổng hiểu sao?

Một lần nữa Paul thấy hụt hẫng, những tưởng mình hoàn toàn hoà nhập không còn sự cách biệt nào, té ra cái nhìn của họ về nhân dạng châu Á vẫn không thay đổi. Paul thấy mình lúc này lung túng không biết nên xếp vào đâu. Ở quê của cha mẹ thì Paul hoàn toàn xa lạ không biết tí gì, cũng không thể nào sống ở nơi đó được. Ở nơi Paul sinh ra và lớn lên thì bọn họ laị coi mình như người ngoại quốc. Paul không nói tiếng mẹ đẻ, cố che đi thân phận nhưng gương mặt và nhân dạng châu Á làm sao che được? nhiều lúc Paul ước ao:” Giá mà sau một đêm ngủ dậy, nhân dạng thay đổi thành người da trắng có phải hay hơn không?”. Paul biết ở trong hãng vẫn có sự ngấm ngầm kỳ thị, cùng một việc như nhau, thời gian như nhau nhưng những đứa da trắng vẫn được âm thầm lên lương và tiền công trả cao hơn Paul. Paul thừa biết việc kiện tụng là không khả thi, ở đây phe nào nhiều tiền, mướn được luật sư giỏi thì nắm chắc phần thắng. Không biết tình cờ hay giới chủ cố tình tiết lộ tin để giằn mặt nhân viên” hễ đứa nào thắc mắc thì tìm lý do cho nó nghỉ việc ngay!”.

Amanda A. thương Paul thật tình, tuy không có khác biệt mấy về văn hoá và lối sống, vì Paul vốn sinh ra và lớn lên ở đây. Lần đầu về nhà Amanda chơi, gia đình họ lịch sự đón tiếp, mọi người vui vẻ khá hoà đồng  nên Paul càng tự tin. Thằng Tony A. anh trai Amanda A. hỏi:

- Mày có ăn thịt chó không? Tao nghe người châu Á ăn thích ăn thịt chó, thịt mèo, chuột, rắn…

Paul hơi khựng laị, nó vốn nhạy cảm nên ngầm hiểu là thằng Tony A. có thành kiến về người châu Á. Paul bảo:

- Tao không biết, riêng tao và gia đình tao thì không hề, có thể cũng có nhóm người thích ăn những món ấy, đó là sự khác biệt về tập quán và văn hoá.

Thằng Tony A. laị nói:

- Có phải ở châu Á, phụ nữ không bằng đàn ông?

Paul hơi bực mình nhưng giữ vẻ thản nhiên:

- Ai nói với mầy như thế? đó là cái nhìn phiến diện và thiếu hiểu biết, ở nơi này cũng không hiếm chuyện phụ nữ bị chèn ép, bị đánh đập, hãm hiếp hoặc trả công lao động thấp hơn đàn ông.

Nó laị hỏi tiếp:

 - Tao nghe người châu Á không kỷ niệm ngày sinh nhật nhưng laị kỷ niệm ngày chết rất linh đình, việc ấy có đúng vậy không?

Paul trả lời:

- Tao không biết rõ lắm, vì tao sanh ra và lớn lên ở đây. Tao nghĩ có lẽ đó là sự khác biệt về văn hoá và cái nhìn. Nền văn hoá nghìn năm của phương Đông còn nhiều huyền bí và khó hiểu đối với người phương Tây, có rất nhiều điều mà chính bản thân tao cũng không hiểu biết gì, mặc dù tao vốn sinh ra trong một gia đình người Á châu.

Amanda A. sợ việc đối đáp như thế sẽ làm buổi gặp mặt kém vui nên lập tức nâng ly mời mọi người uống, khuấy động không khí vui vẻ, nó kéo Paul ra nhảy. Mọi người cũng hào hứng nhảy nhót tưng bừng, tiếng khui lon lốp bóp, tiếng nhạc dập tưng tưng  làm xoá nhoà nhanh chóng cái ý nghĩ vừa khởi lên bực bội trong đầu Paul. Amanda âu yếm vỗ vỗ vào má Paul.

- Honey, đừng nghĩ gì nhé! đừng quan tâm những gì Tony nói, nó chỉ tò mò thôi! mọi người trong nhà đều vui lòng chấp nhận Paul. 

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 092020

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.