Hôm nay,  

Nắng Rút Chiều Thu

12/1/202021:11:00(View: 3912)

Đàn Xưa, Sách Cũ

Giữa tháng Mười, 2020. Hay tin Nhà sách-nhạc Tú Quỳnh đóng cửa, tôi buồn. Ở cái thời COVID-19 này, có bao nhiêu điều vui? Tuần trước, Ba Mẹ qua chơi với em út, Mẹ nói cháu gái muốn tìm thêm sách tiếng Việt. Tôi lật đật chạy vô kệ sách Việt Ngữ của mình, chọn sách ngữ pháp, sách sử, tự điển, và một số tập thơ để Mẹ đem về cho cháu. Đây là sách tham khảo của tôi, nhưng thấy cháu ham học thì tôi hết lòng hỗ trợ. Cô giáo Việt ngữ mà! Nghe ai tìm sách là hoan hỉ giúp liền! Mấy chục năm nay là vậy, quen rồi. Hai hôm sau, tôi gọi cho chị gái, báo tin cuối tuần đó, Tú Quỳnh sẽ mở cửa hai ngày cuối. Tôi hỏi chị có muốn đưa cháu đi coi sách không, nếu không thì tôi đưa. Hỏi cháu thích đi với mẹ hay đi với dì, thì con bé trả lời nước đôi. Thế là tôi một mình biểu quyết: đi với dì. Bữa sau qua thăm Mẹ tôi, cháu gái nói sẽ đi với mẹ, vì mẹ nói để mẹ chở cháu đi, dì khỏi chạy vòng vòng mất công. Tôi mới phải bật mí là, “Trước khi đi tiệm sách, mình sẽ đi xem đàn nữa!” Dì muốn có ‘surprise' cho cháu nên không nói trước, nhưng cùng đường, đành phải bật mí. Hồi hè, con bé ngỏ ý nhờ tôi dạy đàn tranh. Tôi đang hoàn tất một dự án nghiên cứu, nên hẹn với cháu, sau khi xong việc, sẽ bắt đầu dạy đàn tranh cho cháu. Nhưng muốn dạy thì phải có hai cây đàn, nên tôi đã hỏi thăm và xin hẹn, rồi hôm đó đưa cháu đi cùng để cháu chọn cho vừa ý.


Nhớ lại chuyện học đàn tranh, tôi chạnh thương cây đàn thân thiết của mình. Một món quà tinh thần vô giá. Ngày xưa, trong hai năm ở Sài Gòn, tôi có theo học đàn tranh với một chị đang học ở nhạc viện. Chị với tôi học chung lớp Anh Văn tại gia của Thầy Khúc Hữu Chấp, Quận Ba. Tôi nghe nói sau này Thầy Chấp định cư ở Texas. Chuyện đã mấy chục năm rồi, nhưng lớp Anh Văn của Thầy là một kỷ niệm đẹp. Tôi nhớ, chị mang cặp kính thật dày, tóc xoã dài, ít nói, trầm tĩnh, và có nụ cười dè dặt. Sau này thân nhau, chị kể, hồi nhỏ chị bị bệnh, phải nằm nhà một thời gian. Mê đọc sách đến nỗi khi hết bệnh thì phải kè theo cặp kính đến giờ. Chắc tôi lù khù quê mùa nên chị tội nghiệp, và làm quen với tôi. Chị hay đi cùng một chị nữa, cũng học cùng ngành ở nhạc viện. Khi biết hai chị học chuyên đàn tranh, tôi mê liền và tỏ lòng ngưỡng mộ.


Lúc còn ở quê, tôi đã phải lòng tiếng đàn tranh trong một lần thấy nó trên màn ảnh TV nhà hàng xóm. Hồi đó, Ba tôi là ‘nguỵ quân Võ Bị Đà Lạt’ nên bị đi tù cải tạo và nhà tôi bị chính quyền mới ập vô dọn hết đồ đạc từ bàn ghế tủ kệ song nồi xe cộ đến tủ lạnh, tivi. Chỉ còn lại cái sàn nhà đã bị dở gạch bông, trơ đất chỗ lồi chỗ lõm. Chúng tôi chỉ coi tivi “chớp nhoáng” khi đi bộ ngang nhà hàng xóm. Tối đó, tôi đi mua nước mắm ở đầu xóm cho Mẹ nấu canh. Đang đi, thì nghe tiếng đàn lọt ra từ nhà ông Hùng xe đò. Tiếng đàn tranh là cú sét ái tình, tôi mới nghe đã chịu liền. Khi tôi đi tiếp, tuy không còn thấy màn hình, nhưng vẫn nghe tiếng đàn được một đoạn nữa thì mới ‘ra ngoài vùng phụ sóng,’ hết thấy và hết nghe. Ngay lúc đó, tôi nhủ lòng, nếu được học đàn, thì tôi sẽ chọn đàn tranh. Tiếng đàn trong trẻo, nhẹ nhàng, thanh thoát. Nhưng muốn học đàn tranh là chuyện viễn vông! Cả vùng quê tôi không ai có cây đàn này. Thời đó nhà ai nấy ở, chỉ có văn nghệ hành quân đoàn đội, không có trình diễn dân nhạc dân nhiếc gì cả. Mà viễn vông nhất là vì chuyện cơm áo. Thời đó, cơm gạo còn không có mà ăn, áo quần không đủ mặc, tiền sổ vàng sổ đỏ còn không đủ đóng cho mái trường xã hội chủ nghĩa. “Con ngụy” như tôi làm gì dám nghĩ tới chuyện học đàn?


Nhưng chắc trời thương kẻ nghèo. Khi lên Sài Gòn, tôi lại quen chị. Thấy tôi thích quá, chị hỏi tôi muốn học đàn tranh không. Tôi dò hỏi học phí. Tôi không nhớ bao nhiêu, hình như 15 ngàn một tháng, chắc chị cho giá “học bổng.” Tôi về xin Mẹ. Mẹ nói để Mẹ lo. Thế là tôi thành học trò của chị. Mỗi tuần tôi ghé nhà chị, leo hai tầng thang gỗ, học đàn trên gác. Ở dưới là tiệm tạp hoá của gia đình chị. Tôi là con bé nhà quê lên tỉnh, lại là con nhà nghèo, nên thấy tôi không có đàn, chị mới tặng cho tôi cây đàn cũ của chị. Chị thích nó lắm, vì tiếng nó trong. Chị được tặng cây đàn đó khi đoạt giải nhất trong một cuộc thi đàn tranh. Không may, trong một lần sửa nhà, người thợ hồ làm rơi đồ xuống, lủng một lỗ trên mặt đàn. Chị thương cây đàn nên vẫn giữ. Thấy tôi không có đàn, chị nói có thể nhờ người ta dán lại, không tốn bao nhiêu tiền, để tôi có đàn mà học. Lúc đó, tôi ở trọ ở Quận Một. Mỗi lần đi học, tôi đèo theo cây đàn, đạp qua Quận Ba. Chị đàn trước, tôi đàn theo. Tôi chép nhạc trong cuốn tập giấy nhám của thời “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hợi.” Chị thấy tôi hiếu học, nên hễ tôi học xong bài nào là chị dạy tiếp cho tôi bài kế, không đi theo chương trình bình thường. Mỗi lần đến học, tôi đàn lại bài chị đã dạy lần trước. Lần đó, tôi có chuyện buồn, chị hỏi, “Tiếng đàn của em hôm nay hơi gấp gáp. Em có tâm sự hả?” Tôi không là tri âm của chị, vì tiếng đàn tôi non nớt. Nhưng chị là tri kỷ của tôi, vì chị hiểu lòng tôi qua tiếng đàn. Có bữa tôi tới học đàn, chị nhờ tôi xem lại một lá thư bằng tiếng Anh, trước khi chị gởi đi nước ngoài, cám ơn một tổ chức đã trao học bổng cho chị.


blank

“Thời sinh viên có cây đàn tranh xưa"  ở phòng ký túc xá.


Khi tôi đi Mỹ định cư, chị nói tôi đem đàn theo. Tôi cảm động vô cùng. Và cây đàn đó đã cùng tôi mang âm điệu ngũ cung và những bài dân nhạc Việt đi vào những buổi Tết Assembly tại các học khu tại Quận Cam, những chương trình tập huấn (Inclusion Requirement for Title 1) cho các Thầy Cô giáo trường Công lập, những chương trình Tu Nghiệp Hè cho Văn Hoá và Ngôn Ngữ Việt Nam tại các trường đại học, chương trình Trung Thu cho các học sinh tiểu học, vv. Lúc lặn lội từ Quận Cam lên Palo Alto để đi học, tôi đã đưa đàn tranh theo, vì kinh nghiệm xương máu một năm trước, khi tôi qua Thuỵ Điển, không đem theo được, mà nhớ đàn tranh mắc chết, đi tìm khắp chốn cũng không ra. Lúc tôi ở Stanford, có người cũng lấy cớ muốn nghe đàn tranh, đứng rình dưới lầu ngoài cửa sổ ký túc xá của tôi mỗi khi tôi tập đàn. Từ khi được về làm rể của Mẹ tôi, người-rình-nghe-đàn đó không được nghe tiếng đàn tranh nữa, vì tôi mắc sanh con và nựng con rồi. Thôi ráng chờ heng! Mới mười năm thôi, có là bao!


blank

Tác giả đàn đàn tranh, các em học sinh Latinx tại Quận Cam vừa hát vừa múa mừng Trung Thu bằng tiếng Việt do tác giả dạy trong nhiều tuần lễ, 1999.


Sách-Nhạc Thời Cô Vít

Sáng thứ bảy, 17 tháng 10, 2020. Hai dì cháu đi từ 9 giờ rưỡi sáng. 9 giờ là tôi từ thành phố Ho Hem chạy qua thành phố To Ten đón cháu, rồi hai dì cháu thẳng tiến về thành phố Pho Le. Có một tiếng đồng hồ mà tôi chạy vòng vòng hết nửa Quận Cam. Tôi bấm chuông nhà Giáo sư Nguyễn Châu của Đoàn Văn Nghệ Dân Tộc Lạc Hồng. Vị Thầy khả kính đã gìn giữ dòng nhạc Dân Tộc cả mấy chục năm qua tại Little Saigon đón chúng tôi ở cửa. Nhà Thầy nằm trong khu dân cư thật khang trang, thanh nhã. Trên cửa có ghi “Face Covering Required.” Thầy đang dạy đàn tranh. Trong phòng khách có đàn piano và nhiều đàn cổ Việt Nam quý hiếm, được truyền lại từ những bậc thầy. Cây đàn tranh cẩn xà cừ thật tinh xảo, Thầy nói từ cung đình Huế. Thầy tâm đắc cho tôi xem cây đàn cò, được làm từ khúc gỗ mun Thầy tìm được. Cây đàn nặng, chắc. Thầy nói nhờ nó mà Thầy được mời đi thu âm ở nhiều nơi. 


Khi Thầy đưa hai cây đàn tranh ra, thì tôi chấm liền cây đàn gỗ cẩm lai, còn mới tinh. Cô cháu gái chọn cây đàn nhỏ, có cẩn xà cừ. Tôi ráng dụ mà không được. Nói hoài, cháu cũng chỉ cây đàn nhỏ. Thầy nói, thôi mới học thì mua đàn nhỏ, vài bữa học quen rồi mua đàn lớn. Nhưng tôi nói, bắt đầu học thì tìm cây đàn cho tốt, vì về lâu về dài, mình có tình cảm với nó, gắn bó với nhau trong tiếng đàn. Nói gì thì nói, cháu cũng một mực mua cây đàn nhỏ. Tôi đưa cháu đi mua, mà mua cho cháu, nên đành để cháu chọn. Tôi ngậm bồ hòn chở cháu về. Thầy có tặng cho tôi quyển sách “Đại Cương Thang Âm Điệu Thức Việt Nam" mà Thầy mới soạn trong thời gian ở nhà vì đại dịch. Hai dì cháu đều chưa ăn sáng, nên ghé Bánh Mì Chè Cali, mua hai ổ mì không gặm cho đỡ đói, vì có thịt thà thì hơi bất tiện. Chúng tôi ra tới Tú Quỳnh thì cả khu thương mại đã đầy xe. May có người ra, chúng tôi mới có chỗ đậu, để ghé thăm Tú Quỳnh lần cuối.


blank

Cô Yến Tú Quỳnh và những người còn thương chữ nghĩa Việt.


Tú Quỳnh là một tiệm sách nhỏ, hôm đó càng thấy nhỏ hơn vì đầy cả người. Thật cảm động khi thấy tiệm sách đông người, không còn chỗ để vào. Đây là những tấm lòng còn muốn gìn vàng giữ ngọc cho đời sau. Hai dì cháu tôi đứng chờ ở cửa để khi có người ra thì chúng tôi mới vào được. Nhà báo, diễn viên Nguyễn Ngọc Chấn đang phỏng vấn một số người. Cô Yến đứng ở phía ngoài quày tính tiền, hàn huyên cùng thân chủ. Nhiều người bê cả thùng sách lớn, nào sách nhạc, nào báo văn nghệ. Tôi thấy Nhà báo Trịnh Thanh Thủy ở hàng sách bên trong, liền chào chị. Chị cũng chạy qua vui vẻ ôm tôi. Tôi thấy chị đang cầm máy thu âm. Đã lâu rồi, tôi không gặp thi văn hữu, nên rất vui được gặp chị ở đó, và càng vui hơn khi biết chị đang làm phóng sự. Xin cám ơn chị và bao tấm lòng khác vẫn luôn miệt mài tận tụy với sinh hoạt chữ nghĩa Việt ở xứ người. Nhìn quanh, thấy toàn những người tha thiết với chữ nghĩa, văn hóa, văn nghệ Việt Nam, tôi cũng bớt chạnh lòng. Từ tháng Ba tới giờ, bao nhiêu thương vụ nhỏ tại Mỹ đã đóng cửa vì đại dịch. Nhiều công ty lớn cũng phải cắt giảm. Vậy thì Tú Quỳnh phải đóng cửa cũng nằm trong tình trạng chung đó, nhưng đối với thủ đô tỵ nạn Little Saigon và người Việt ở nhiều nơi, thì Tú Quỳnh là một trong những trụ điểm của sinh hoạt văn hóa, văn nghệ. Cho nên chắc chắn đây là nỗi buồn chung. 


blank

Tác giả nói về Tết Việt Nam và trình diễn đàn tranh tại Trường Martin Luther King, 

Santa Ana, Orange County, tháng Giêng 2000.


Vì tôi đã tham gia dạy tiếng Việt với tư cách thiện nguyện ngay tại thành phố Westminster từ ngày đầu tiên đến Mỹ hơn 26 năm nay, nên đối với tôi, tiếng Việt rất quan trọng và là linh hồn của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại, cái dây nối cho tất cả chúng ta ở khắp nơi trên thế giới. Tuy các nhà sách tiếng Việt đều tập trung tại Quận Cam, nhưng vẫn đếm trên đầu ngón tay. Nay một nhà sách đóng cửa, thì cũng là nỗi lo chung, liệu các nhà sách còn lại có còn cầm cự được không, và cầm cự được bao lâu nữa? Sáng đó, tôi có chia sẻ với Thầy Châu ưu tư và nhận xét của tôi đối với tình trạng giảm sút trong việc đầu tư văn hóa cho các em hiện nay, so với hai mươi mấy năm trước. Thầy Châu có nói đó là tình trạng chung, nhất là vì bây giờ có nhiều tài liệu trên internet. Tuy nhiên, dù có phải đóng cửa tiệm sách, hay có giảm sút trong sinh hoạt văn hóa, thì tôi vẫn tin là văn hóa Việt Nam tại hải ngoại sẽ không mai một. Nếu Tú Quỳnh phải đóng cửa vì COVID-19, thì mai này, ắt cũng sẽ có những nổ lực mới, những 'Cô Yến' mới, triển khai những hình thức sinh hoạt mới cho văn hóa, văn nghệ. Ngày xưa, thế hệ thuyền nhân đến tỵ nạn, gặp nhiều khó khăn, ngỡ ngàng, mà đã gầy dựng được nên Thủ Đô Tỵ Nạn tại Quận Cam như ngày hôm nay, thì tôi vẫn có niềm tin mãnh liệt vào một sự tiếp nối và bừng nở của sinh hoạt văn hóa sau khi đại dịch qua đi. Tôi tin vào những tấm lòng của các thế hệ đang lớn, những trái tim hướng về cội nguồn, những bạn trẻ sinh ở hải ngoại, mà tự trao dồi tiếng Việt, muốn học nhạc cụ dân tộc, muốn thấm nhuần văn hóa Việt Nam. Tuy tôi có hơi 'bi quan' khi thấy sự giảm sút trong việc duy trì văn hóa trong thời gian gần đây, nhưng khi nhìn vào chặng đường 45 năm của cộng đồng Việt tỵ nạn tại hải ngoại và tại Quận Cam nói chung, tôi dám đặt niềm tin vào một tương lai vẫn đậm đà bản sắc dân tộc ở xứ người.


Khi hai dì cháu về tới nhà, tôi méc với Mẹ tôi là tôi chấm cây đàn kia mà cháu không chịu. Mẹ vừa nghe tôi nói “đàn gỗ cẩm lai không cẩn” thì theo phe tôi liền. Mẹ nói, sáng đó, trước khi tôi qua đón, cháu đã nói với Mẹ tôi là sẽ chọn cây đàn ít tiền nhất, vì sợ tốn tiền của dì. Tôi hứ một cái thiệt lớn cho đỡ tức. Tôi liền gọi cho Thầy, và xin phép đổi đàn. Thầy nói không sao hết. Cháu cũng muốn đi với tôi, nên hai dì cháu lên đường lần hai. Tôi nói dỗi, “Làm khổ tui nè! Hồi nãy hổng chịu nghe, bây giờ tui phải đi lần nữa nè! Hun cái bù lỗ đi!” Cháu cười mỉm chi, hôn tôi một cái. Mẹ tôi ghen tỵ, “Nó hun dì nó thì tươi rói, chứ đâu phải như lúc hun Ngoại!” Tôi chọc, “Con hun Ngoại đi, để Ngoại khỏi kêu ca nữa!” Đổi đàn xong rồi, tôi đưa cháu về, rồi gọi cho chồng. Đã một giờ chiều. Tôi báo cho chồng tôi là tôi đang trên đường về. Con đã ăn trưa chưa? Chưa! Sao tới giờ này mà chưa ăn trưa? Chờ mẹ! Trời, cơm nước đã soạn sẵn, chờ cái gì nữa! Tụi con không đói. Chờ mẹ về ăn chung. Ba cái loa oang oang tranh nói vô một cái phone. Tôi chào tạm biệt, cúp máy. Nhiều chuyện! Cơm không lo ăn! Nói nói cái gì? Thiệt tình!


nắng rút chiều thu

Năm 2020 nhiều biến động. Nổi trội nhất là Cô Vít tung hoành, gieo rắt tai ương, tung mầm chết chóc. Nhưng có nhiều điều mà Cô Vít ‘rút' đi nhưng không hiển hiện.


Giữa đại hoạ chung của thế giới, thì còn thiên tai lớn cho dân nghèo ở miền Trung. Lũ ngập trời. Khi nước đi rồi, người dân nghèo miền Trung còn lại gì? Những đứa bé ngơ ngác đẫm đất cát như một pho tượng còn chưa khô đang bước đi. Người dân mất trắng. Mà chính quyền lại ‘độc quyền' quyên góp những đóp góp cứu trợ. Rồi lại cũng trò cũ giở giói, nhận mười, giao chưa được một. Trên thế giới này, có bao nhiêu nơi mà con dân phải gánh chịu thiên tai và cường quyền bóc lột như thế này?


Mùa thu ở Quận Cam nắng. Nắng như nung. Thằng bé con hỏi, “Mẹ ơi, đã tháng mười mà sao còn nóng quá?” Cháy rừng triền miên. Thời tiết bấp bênh. Út Út mới năm tuổi mà tối không chịu ngủ. Nó thủ thỉ, “Mẹ ơi, trốt lửa có tràn về thành phố của mình không? Con không ngủ, vì con sợ lửa về.”


blank

Thương sao thằng bé con đẫm bùn đất sau cơn lũ.


Nhưng hôm nay, mặt trời trốn mất. Nắng rút. Thu về. 


Chỗ thì nước nhiều. Chỗ thì lửa khắp. Mẹ Đất mệt rồi! Đời vẫn vạn người lầm than!

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.