Hôm nay,  

Tác Phẩm Để Đời

02/01/202118:16:00(Xem: 4038)

 

 Y viết được dăm bài thơ, vài truyện ngắn gởi đi khắp nơi, hổng biết chất lượng thế nào mà chả thấy toà soạn nào hồi âm cả. Duy có tờ Đaị Thời Ngôn của địa phương chịu đăng, có lẽ đăng để trám chỗ trống những khi quảng cáo thiếu hoặc giả không cóp được gì trên mạng, nhất cử lưỡng tiện. Nhờ vậy mà báo vừa có bài mới vừa chẳng phải tốn công chi cả. 

 Từ ngày bài được đăng, y trở nên khác hẳn, đi đứng khệnh khạng, nói năng toàn lời lẽ đao to búa lớn hoặc giả là lý thuyết cao siêu, lý luận lập trường rất cứng, chỉ tiếc là kẻ đối diện  thấp quá, không hiểu nổi y nói gì. Có kẻ thấp kém còn bảo:” Hiểu chết liền!” y nghe được cười khinh khỉnh ra vẻ không chấp bọn hạ đẳng. Bài của y được vài người thân khen lấy để mà có khen, khen đãi bôi… không ngờ y tưởng thật, y sướng rêm cả mình mẩy, tinh thần phất cao tựa như thăng hoa phát tiết tinh anh tới thời. Y ngỡ mình đã thành đaị văn hào hay đaị thi sĩ chi đó. Trong đầu y lập tức phác họa ra một viễn tượng cao xa và lớn lắm. Y đang thai nghén hay ôm ấp một hoài bão là sẽ viết một tác phẩm để đời, một tác phẩm cực kỳ lớn mới có thể dung chứa được toàn bộ tài năng của y. Tác phẩm ấy phải dùng loại ngôn ngữ bác học, tuyệt đối tránh những từ ngữ “ Nôm na mách qué”, ý nghĩa phải đa tầng, nội dung thì thâm thúy, phản ánh chuyện đời chuyện đạo…Điều quan trọng là tác phẩm của y phải tránh những vấn đề vặt vãnh, nhỏ bé, tủn mủn đaị loại như: Chuyện dân mất đất, chuyện quan xử oan, chuyện ăn cắp của công hay chuyện cô chiêu cậu ấm cậy thế làm càn, ăn chơi khoe thân khoe của…

 Tác phẩm dự tính viết phải có tầm nhìn vĩ mô, phản ánh những vấn đề cực kỳ quan trọng và vĩ đaị của thời đaị hôm nay, của kỷ nguyên kỹ thuật số, kỹ thuật điện toán… Y dự định sẽ viết những vấn đề có tầm bao quát toàn thế giới, phải có chiều sâu của lịch sử nhân loại và nhất là phải có cái nhìn đi tắt đón đầu thời cuộc. Y cho rằng vấn đề y viết phải lưu laị cho lịch sử ít ra cũng vài trăm năm, kiểu như cụ Tiên Điền “ Bất tri tam bách dư niên hậu” vậy! 

 Kể từ lúc đề ra kế hoạch viết tác phẩm để đời như thế, y ngày đêm cứ như người mộng du, lúc nào cũng suy nghĩ đăm chiêu để tìm ý tứ cho câu văn, nghĩ suy cái đề tài ấy phải trình bày sao cho hàng thức giả, đaị trí thức đọc phải suy nghĩ và phải tác động vào tâm thức của họ. Y đắn đo lựa chọn từ ngữ thật kỹ càng, phải dùng những thuật ngữ đầy trí tuệ, ẩn chứa sự thông minh và trác tuyệt nhất. Y cũng tốn nhiều tâm lực để tìm tòi những thuật ngữ khoa học hiện đại để dùng trong tác phẩm lớn ấy. Y cho rằng, thời đaị hôm nay là thời đaị hoa học kỹ thuật tân tiến, nhất định tác phẩm của y phải cập nhật những phát minh, sáng chế hàng đầu của nhân loại, tỷ như: Kỹ thuật 4.0, đám mây, mạng 5G… và những phát kiến tầm cỡ vũ trụ như thám hiểm, thăm dò sao hoả, mặt trời…Điều đó sẽ chứng tỏ y là tác giả thức thời, hiện đaị. Chưa hết, y còn quan niệm thời đaị toàn cầu hoá, trái đất này nhỏ bé như một ngôi làng. Các nền văn minh va chạm dữ dội, các truyền thống văn hoá của các dân tộc khác nhau sẽ giao thoa và tác động qua laị, vì thế tác phẩm của y phải có tính chất toàn cầu, thể hiện sự tương tác và giao thoa của các nền văn minh lớn trên thế giới. Y cũng không quên tự  nhắc nhở mình không sa đà mở rộng, vì thế sẽ làm loãng cái tính đậm đà của bản sắc dân tộc. Y chủ trương “ Hoà nhập nhưng không hoà tan”. Y vẫn thường tâm niệm “ có thực mới vực được đạo”, kinh tế là chủ chốt, xuyên suốt mọi vấn đề khác, kinh tế quyết định những mối quan hệ xã hội và gia đình. Ai nắm được hầu bao thì có quyền chi phối kẻ khác. Thời đaị vĩ mô, toàn cầu hoá các tập đoàn kinh tế sẽ quyết định tình hình kinh tế thế giới. Thì trường chứng khoán là biểu đồ, là nhiệt kế của nền kinh tế, vì thế y quyết định dành một vài chương để trình bày về kinh tế vi mô và vĩ mô. Y sẽ đề cập đến bản chất và sự tác động của kinh tế đối với xã hội và hạnh phúc gia đình, những lợi ích to lớn cũng như hệ quả tất yếu của kinh tế. Y sẽ phân tích và đưa ra những nhận định, những dự đoán cho nền kinh tế thế giới trong thời đaị toàn cầu hoá. Y vốn là người phương Đông nên cũng có máu hoài cổ, vì vậy y lục tìm những tài liệu cổ để có cái  nhìn tổng quan về kinh tế của thế giới cổ đại. Y sẽ đưa vào tác phẩm của mình những con số, những dữ liệu thật đáng tin cậy của nền kinh tế nhân loại từ cổ chí kim. 

 Khi chuẩn bị bắt tay vào viết, y xác định rõ lập trường quan điểm vững mạnh, phải có tư tưởng lớn để tác phẩm không rơi vào tình trạng tủn mủn, vụn vặt. Y xuất thân từ vài khoá học về khoa học xã hội, laị được tập huấn về lý luận, bổ túc thêm những lớp về tranh đấu giai cấp… vì thế y lựa chọn từ ngữ, văn ngôn cẩn trọng, chỉnh chu. Văn phải có tính chính luận, laị phải đột phá và khai phóng, phải tiếp cận với trào lưu hiện đaị, hậu hiện đaị lẫn siêu hình thức, tân hình thức…Những chương về chính trị thì lập luận sắc bén, kiên quyết về lập trường, bảo vệ quan điểm giai cấp, không chấp nhận tư tưởng diễn biến, thoả hiệp…mảng kinh tế phải có tính chuẩn và chính xác, thể hiện như xác xuất thống kê. Mục văn hoá xã hội phải có tính phổ cập laị chuyên sâu để giới học giả có thể tham khảo và giới bình dân có thể tiếp cận được. Riêng mục văn chương phải  bay bướm, lãng mạng, nhất định phải có thần cú xuất siêu, thơ thì tản thần thi tứ. Đặc biệt y sẽ cho ra một loại thi văn vô cùng độc đáo, thơ lai văn để tạo ra sản phẩm có một không hai, đaị khái như kiểu xe Hybird chạy bằng xăng và cả điện hay ga vậy! Loại thi van hay văn thi này thì rất hiện đaị, phế bỏ ngữ pháp, câu cú, dấu câu, quy tắc viết hoa…Thi văn hiện đại phải là như thế, có vậy mới phóng bút phát triển được cảm xúc nghệ thuật văn chương thi phú. Nhất định phá bỏ hết những ràng buộc về ngữ pháp, ngữ pháp ràng buộc cầm tù căn chương, phá hoại nghệ thuật. Thời đaị hiện đaị, văn thi phải tân hình thức, siêu thực, siêu tưởng… có thế tác phẩm mới xứng đáng tầm cỡ hoàn vũ. 

 Kế hoạch viết tác phẩm để đời vẫn ngaỳ ngày càng hoàn thiện cấu tứ khung sườn. Y ngày đêm sáu thời đi, đứng, nằm, ngồi đều dồn tâm trí nghiền ngẫm về nó, bao nhiêu tâm tư dành hết cho tác phẩm lớn để đời. Ngay cả lúc làm tình y cũng suy nghĩ về nó, vì mãi nghĩ nên thiếu tập trung hành sự làm cho vợ y không thoã mãn, vợ y bực tức sanh nghi y có bồ nhí. Y phải ra sức thanh minh thanh nga, phân trần giải thích về kế hoạch viết tác phẩm lớn để đời ấy. Vợ y phì cười:” Rõ vớ vẩn! tác phẩm với tác màu, viết không khéo đụng chạm là đi tù như chơi! Văn chương ấm ớ hội tề, liệu sách viết ra có bán được xu teng nào chăng? ngủ đi, mai dậy đi cày mà lấy tiền mua sữa cho con.”. Y cụt hứng, nhiệt huyết giảm nghiêm trọng, tự trọng bị tiổn thương… nhưng y tặc lưỡi:” Đàn bà đái không khỏi ngọn cỏ, hơi đâu trách! Đàn bà vốn tủn mủn vụn vặt chuyện cơm áo gạo tiền, làm sao với tới tư tưởng lớn, tầm nhìn xa, làm sao hiểu được cái dự án tác phẩm để đời ấy!” nghĩ thế nên y cảm thấy được an ủi dễ sợ. Y còn cho rằng “Phàm việc lớn phải gặp trở ngại, có thử thách thì thành công mới vẻ vang”. Y tự cười thầm và sung sướng như người tự sướng.

 Đêm dần về sáng, bất chợt y ngồi dậy, tay chém dứ dứ trong hư không, miệng lẩm bẩm” Phải dứt khoát viết cho xong tác phẩm này, mỗi ngày phải viết hai mươi trang!”. Nghe động, vợ y thức giấc, thấy thế, cô ta rền rĩ” Khổ thân tôi! lấy chồng văn sĩ, thà lấy ma cô đắt mối còn có cái ăn bỏ lỗ miệng, lấy văn sĩ có mà ăn bánh vẽ!”. Nghe vợ nói thế, y tỉnh người ra, nằm vật xuống, mắt nhìn trừng trừng lên trần nhà, bụng ngghĩ thầm:” Đàn bà thật nhỏ bé, đáng thương làm sao? Đàn bà không thể hiểu được chí lớn của mình”.

 Đồng hồ báo thức đổ chuông “đính đon, đính đon…”liên hồi, trong đầu y loé lên một tia sáng:” Cần phải đưa vào trong tác phẩm của mình chuyện vợ chồng, đây cũng là đề tài thực tế, nhân bản và hữu ích cho loài người. Chuyện vợ chông bên Đông hay bên Tây, từ xưa hay bây giờ cũng đều giống nhau, ngọt ngào thì ít mà chua cay thì nhiều. Vợ chồng nào cũng có vô số vấn đề để mổ xẻ, bàn tán, nghiên cứu…Vợ chồng lấy nhau, lập thành gia đình, mỗi gia đình là một tế bào hay một viên gạch của toà nhà xã hội. Gia đình có yên vui thì xã hội mới hoà bình và phát triển. Vợ chồng có ấm êm thì xã hội mới hoà hợp, thế giới mới hoà bình. Sức ảnh hưởng của gia đình rất lớn, vì vậy tác phẩm lớn để đời thì không thể thiếu vấn đề này! đây là vấn đề cao cả, nhân văn. Y sẽ định hướng cho độc giả, giúp cho độc giả hiểu biết hơn, sống tốt đẹp hơn, như thế là phục vụ cho nhân quần và xã hội. Còn mải nghĩ về đề tài “Vợ chồng và gia đình” trong tác phẩm cuả mình, chợt nghe cô vợ cằn nhằn:” Ngày cuối tuần sao không tắt chuông báo thức? lúc nào cũng ngơ ngẩn như kẻ mộng du, dẹp mẹ nó cái tác phẩm lớn để đời ấy đi!”. Y lẳng lặng không trả lời, vì y biết đàn bà không thể nào hiểu được tư tưởng của y. Đàn bà chỉ biết son phấn là cùng, tư tưởng và tầm nhìn không qua nổi cái váy cũn cỡn.” 

 Y thức dậy sớm hơn mọi ngày, sau khi vệ sinh thì mở máy tính lên định viết, máy tính còn khởi động thì tâm ý y liền nghĩ về tên của tác phẩm. cái tên rất quan trọng, người ta nói “ xem mặt đặt tên” là vậy! Cái tên phải ít nhiều thể hiện nội dung, tư tưởng của tác phẩm, phải chuyển tải cái thông điệp mà tác giả muốn gởi gắm. Cái tên cũng cần phải có tính ẩn dụ để cho độc giả suy gẫm khi cầm cuốn sách trên tay, có vậy mới hấp dẫn và lôi cuốn. Chưa hết, tác phẩm lớn thì cái tên phải có tính tuyền thống laị vừa mang dấu ấn hiện đaị của thời đaị. Y liệt kê ra một loạt những cái tên dự kiến cho tác phẩm, những cái tên đaị loại như: Văn chương và thời đaị toàn cầu hoá, Nghệ thuật ngôn từ thời kỹ thuật số, văn chương và kinh tế tác động như thế nào đến gia đình… vân vân và vân vân. Những cái tên rất kêu, đầy ấn tượng, sau khi viết ra laị loay hoay lựa chọn, những cái tên nhảy loạn xạ như những con số lô tô trong lồng quay. Cái tên này thì có tính nghệ thuật hơn nhưng tên kia thì có tính hiện đaị, cái tên nọ thì phổ cập, cái tên ấy thì hướng đến hạng độc giả có trình độ học thức cao… Tính tới tính lui đến khi trời sáng rỡ bên ngoài mà vẫn chưa lựa chọn xong. Y gác laị, định bụng viết xong rồi chọn tên sau. 

 Những ngày kế tiếp y luôn động não tầm tứ, tìm câu, chọn chữ, viết được trang đầu thì trong đầu y laị nảy sinh vấn đề khác. Y tự nhủ “ vấn đề chính trị, tôn giáo và giới tính là ba vấn đề cực kỳ nhạy cảm, đụng đến sẽ va chạm, sẽ bị nhà cầm quyền làm khó, sẽ bị dư luận chống đối, bạn bè tranh cãi thị phi… nói chung là vô cùng rắc rối! Mình phải tránh né ba vấn đề này, vả laị làm nghệ thuật phải phi chính trị, phi tôn giáo, phi giới tính. Nghệ thuật đích thực phải nằm ngoài ba vấn đề này, nhất là vấn đề chính trị, cho dù có nói đến dân chủ hay nhân quyền cũng không hay ho gì, nó sẽ làm mất tính trong sáng, tính hoàn mỹ của nghệ thuật. Nghĩ đến đó thôi, chí khí y cao ngất như Trường Sơn, nhiệt huyết bừng bừng như lửa lớn, cảm hứng trào dâng như sóng biển, tư tưởng bay bổng như gió lớn. Y thấy mình vượt xa, vượt cao hơn đồng loại, thấy mình bay bổng trên hư không như đaị bàng, nhìn xuống thấy cây cỏ bụi bờ thấp bé; thấy chồn cáo, thỏ chuột sao mà đáng thương quá . Y cao hứng lẩm bẩm một mình:” Rồi đây nhân loại sẽ ghi nhận thành quả của ta, tác phẩm của ta sẽ được trang trọng lưu giữ ở những thư viện lừng danh của Oxford, MIT, Quốc hội Hoa Kỳ, Georgia Tech…” Y sung sướng mơ màng tưởng tượng y sẽ là nhà văn gốc mít đầu tiên được giải Nobel văn chương, sẽ được mời nói chuyện ở các viện đaị học lớn của thế giới. Tác phẩm để đời của y sẽ được giảng dạy ở bậc đaị học, các học giả về giáo dục, nghệ thuật, ngôn ngữ… sẽ lấy sách y làm kim chỉ nam. Các nhà xã hội học, kinh tế gia sẽ nghiên cứu tác phẩm của y để đề ra kế hoạch cho hiện tại và tương lai. Các nhà hoạch định chính sách sẽ dùng tư liệu trong tác phẩm để đời của y để vạch ra đường lối phát triển kinh tế, xã hội. Các nhà thơ sẽ lấy tác phẩm của y làm sách gối đầu, sẽ ứng dụng cách sử dụng ngôn từ nghệ thuật…

 Những tuần kế tiếp y tiếp tục viết, cắm cúi viết, mày mò viết, thỉnh thoảng ngồi thừ ra nghiền ngẫm sẽ thêm vấn đề này, loại bớt mục nọ để cho tác phẩm hoàn hảo tuyệt đối, hoàn hảo kiểu như quyển “ Lã Thị Xuân Thu” của Lã Bất Vi vậy! Tác phẩm của y sẽ hoàn hảo đến độ không thể thêm hay bớt một chữ hay một từ nào. Y laị thầm nghĩ “ Giá mà mình có tiền và có thế lực, mình cũng sẽ treo vàng làm thưởng cho những ai có thể thêm bớt hay sửa chữ nào trong tác phẩm của mình.” Y viết rồi tẩy xoá, sửa chữa, thậm chí viết dăm trang laị bỏ đi để viết laị cho nó hay hơn.

 Tiếp những tuần sau, suy nghĩ đã chín mùi, nội dung tác phẩm cũng phác hoạ xong, ngôn từ đủ rồi. Y tiếp tục viết, cứ viết vài đoạn thì ngưng để đọc và cảm thấy không hài lòng. Y lầu bầu trong miệng:” như thế naỳ thì không hấp dẫn, cũng không thể hiện được văn phong bút pháp cuả mình”. Y laị xoá và viết, y đinh ninh phải viết cho đậm đà nhưng phải bay bổng, câu văn vừa chỉnh chu nhưng không kém phần bay bướm thì mới ăn khách. Y laị cặm cuị viết, rị mọ viết cái ý nghĩ ra, khốn nỗi sao nó cứ tắc tị. Y còn ngổn ngang những ý tứ phải viết thế này thế nọ thì nghe tiếng vợ nheo nheó kêu đi đón con, bực bội vì quấy quá làm phân tán tư tưởng nên y lảm nhảm:” Rõ chán đàn bà, ba cái chuyện trẻ con vặt vãnh làm hỏng cả ý đồ nghệ thuật của ta, đàn bà thật chẳng biết tôn trọng lao động sáng tạo là gì cả!”, tuy vậy nhưng cũng phải tạm dừng việc viết lách để đi đón con.

 Cho đến một hôm nọ, trời đã khuya lắm rồi mà y vẫn còn chong đèn mò mẫn viết, khổ nỗi cứ mươi hàng là bí cả ngôn từ lẫn ý tứ. Y ngồi thừ ra đó, mân mê mấy sợi râu cằm, thỉnh thoảng vỗ trán tìm tứ mới. Vợ y từ phòng trong leó nhéo gọi:” Viết gì mà viết mãi không xong, chẳng biết cái nghệ thuật ấy có vực được mấy miệng ăn trong nhà này không? ngủ đi! mai dậy sớm đi cày, cứ đi trễ hoài hãng nó đuổi là không có tiền trả hoá đơn, bây giờ ăn mày cả đám!”. Y giơ hai tay kêu trời:” Rõ khổ thân tôi! Đàn bà chẳng biết chi là nghệ thuật cả, phải biết hy sinh cái nhỏ nhặt của đời thường để đạt cái đỉnh cao của nghệ thuật!” 

 Tuy miệng nói cứng vậy nhưng vẫn tắt đèn đi ngủ, trong giấc ngủ chập chờn, tác phẩm lớn để đời cứ lung linh như cánh bướm trong tâm ý của y. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 11/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.