Hôm nay,  

Văn Học Press Giới Thiệu Tập Truyện Của Nguyễn Trung Tây "Ông Giáo Bán Mắm"

4/7/202116:55:00(View: 3723)

 

NC_Cover_PreOrder.jpg


Văn Học Press trân trọng giới thiệu: ÔNG GIÁO BÁN MẮM


Tập truyện

NGUYỄN TRUNG TÂY

VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021


Tựa: Nhã Ca

Tranh bìa: Đinh Trường Chinh

Thiết kế bìa: Lê Giang Trần


500 trang, ấn phí: US$25.00


Tìm mua trên BARNES & NOBLE

Keyword: ong giao ban mam

Hoặc bấm vào đường dẫn sau:

Ong giao ban mam by Nguyen Trung Tay, Paperback | Barnes & Noble® (barnesandnoble.com)

Mời đọc Nguyễn Trung Tây


Nhã Ca


Tháng Tám 2010, với hai bài “Mẹ, Mẹ Tôi” và “Gốc Phi Châu” viết từ nhiệm sở truyền giáo vùng sa mạc Úc Châu, nhà văn linh mục Nguyễn Trung Tây trở thành khôi nguyên giải Chung Kết Việt Báo Viết Về Nước Mỹ năm thứ mười. 


Tháng Giêng 2021, bỗng nhận một email thân tình, đòi chị Nhã "ngoáy vài dòng" giới thiệu, kèm theo là chữ nghĩa và bìa sách "Ông Giáo Bán Mắm." 


“Ngoáy vài dòng” là chuyện ào ào thời còn trẻ. Bây giờ, tuổi ngoài 80, nhớ trước quên sau. Mừng tác phẩm của nhà văn thành sách, thấy trước hết phải đọc. Đọc tới đọc lui. Xong tập truyện, vẫn thấy phải đọc tiếp. Viết Về Nước Mỹ liên tục đã hơn 20 năm, riêng tác giả Nguyễn Trung Tây đã có 44 bài viết. Những tự sự người thật việc thật từ tác giả góp phần bổ túc cho tập truyện sáng tác. 

… 


"Tôi, tuổi mười ba, đã lạc khi nhìn thấy xe tăng T-54 lăn bánh trên đường Lê Văn Duyệt...” Nguyễn Trung Tây viết về Tháng Tư 1975, trong bài Hồn Đi Lạc. "Hồn Lạc vì cùng số phận là con cháu Lạc Long." "Lạc khi bị nhổ bật gốc khỏi quê nhà bởi cuộc chiến Việt Nam. Thuyền gỗ vượt biển lênh đênh trên mặt sóng, những cô gái tuổi ươm mơ tóc dài bị hạ nhục bởi ngư phủ xứ chùa vàng Thái, những trai trẻ bị bạo hành... Năm 82, sau những hãi hùng với biển và người, thuyền gỗ đến Mã Lai, tôi đã sống cả năm vật vờ giữa không khí ngột ngạt của trại cấm Sungai Besi, trước khi tới được trại chuyển tiếp Bataan tại Philippines...”


"Tháng Tư 1984, tôi đặt chân tới Thung Lũng Hoa Vàng, lạc loài với ngôn ngữ lạ. Và chỉ một năm sau, Tháng Năm 1985, Bố tôi mất! Tôi đã lạc khi nhận tin Bố trút hơi thở cuối đời tại Việt Nam. Một phần hồn không bao giờ bình phục..." 


Tác giả nhớ thời ấu thơ thường được Bố khuyên con trai đi tu giúp đời, rồi nhớ năm 89, từng gõ cửa nhà thờ xin xuất gia để phụ giúp những người khốn khó của những vùng đất tuyệt vọng.


Chính là với những hồi ức này, Nguyễn Trung Tây cuối cùng đã tìm tới Dòng Truyền Giáo Ngôi Lời, và từ đây chàng có thể tự gọi mình là "tu sĩ bình bát" khi phục vụ trong những ghetto của người Mỹ gốc Phi Châu tại Nam Chicago.


"Năm 87, mẹ tôi, chị và em đường bộ đặt chân tới đất Thái. Năm 89, cả nhà, mẹ tôi, anh chị em, đoàn tụ tại Thung Lũng Hoa Vàng. Sau những loay hoay hội nhập, chúng tôi giờ đây đã trưởng thành, bắt đầu đứng lên, riêng tu sĩ bình bát đi tới những sắc tộc khác, để chia sẻ, sinh hoạt và phục vụ..." 


Từ sa mạc Úc Châu, tu sĩ bình bát giải thích và vui vẻ thông báo với buổi họp mặt mười năm Viết Về Nước Mỹ, "Hiện nay, bình bát đang công tác tại trung tâm nước Úc, Central Australia. Công tác chính là sinh hoạt với người thổ dân Úc Châu tại những thôn làng xa xôi, Santa Teresa, Yunedumu... Hồi xưa, làm việc với người Mỹ gốc Phi Châu tại Chicago, có một thời hội nhập văn hóa đeo bông tai trái. Ngày hôm nay, năm 2010, làm việc với thổ dân Úc Châu, tu sĩ không đeo bông tai trái nữa, mà đang học và nói tiếng thổ dân, Arrernte (Arranda), một trong những ngôn ngữ chính của nền văn minh 40,000 năm văn hóa thổ dân Úc Châu:


— Werte! Unte mwerre. Có nghĩa là "Kính chào quý vị! Bác/Anh/Chị, có khỏe hay không".

. . .


Hãy nuôi lớn ước mơ. Mọi giấc mơ tử tế đều sẽ thành sự thật. Ngay từ những bài viết đầu tiên, Nguyễn Trung Tây cho thấy niềm tin này. 


Không có chuyện giảng đạo. Cũng chẳng có chữ nghĩa hoa mỹ. Hình như nhà văn tu sĩ bình bát của chúng ta không viết bằng văn chương lý lẽ mà viết bằng tấm lòng và niềm tin tử tế.


Từ hơn mười năm nay, mỗi lần được đọc ông tôi thấy lòng mình thư thái hơn.


Kính mời cùng đọc Nguyễn Trung Tây. 


– Nhã Ca 


Ba Co (2).jpg


Tháng Tám 2010, Việt Báo họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ mười, nhà văn linh mục Nguyễn Trung Tây, khôi nguyên giải chung kết tác giả tác phẩm, không thể rời nhiệm sở truyền giáo vùng sa mạc Úc Châu. Thay mặt tác giả, nhân vật chính của bài "Mẹ, Mẹ Tôi," cụ bà Hà Thị Phức, 90 tuổi, được người chị ruột của tác giả là cô Nguyễn Thị Vinh hộ tống, đã bay từ San José về Little Saigon dự cuộc họp mặt thay người con linh mục. Sự hiện diện của cụ bà là phần trang trọng và cảm động nhất trong lễ phát giải. Trong hình: Bên cụ bà là cô Vinh, "người chị ruột thân thương" của tác giả, Ngọc Bảo Xuân, Lê Tường Vi, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nhã Ca và Bồ Đại Kỳ.

***

22 Agostino, Irvine, CA 92614 USA • vmail: +1-949-981-3978

email: [email protected] • Facebook: Van Hoc Press

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.