Hôm nay,  

Giới thiệu thi phẩm 'Tiếng Chim Bên Dòng Thác Champy' của Hoàng-Phong-Linh Võ-Đại-Tôn

16/04/202118:19:00(Xem: 3726)

Vo Dai Ton

 

L.T.S.- Tập thơ Tiếng Chim Bên Dòng Thác Champy của Hoàng-Phong-Linh Võ-Đại-Tôn được ra mắt tại Houston, năm 1992, sau khi Ông mãn tù cộng sản Việt Nam. Điệp-Mỹ-Linh là người duy nhất giới thiệu tác phẩm này.

 

 

Kính thưa quý vị, thời gian gần đây, nhiều ngòi bút trong tập thể người Việt tỵ nạn đã tốn hao không biết bao nhiêu giấy mựt để viết, ca ngợi và đánh bóng hai nhân vật của “phía bên kia”. Hai nhân vật đó là Bùi-Tín và Dương-Thu-Hương. Tôi sẽ không phê phán bất cứ điều gì về Bùi-Tín và Dương-Thu-Hương; tôi chỉ xin thưa với quý vị rằng những ngòi bút thuộc “phía bên này” đã thực hiện rõ nét câu “Bụt nhà không thiên”.

 

Thật vậy, trong cộng đồng người Việt Quốc-Gia, biết bao nhiêu người đã thật sự dấn thân cho đại cuộc, tại sao không ai nói đến mà chỉ tìm cách bôi bẩn? Trong tập thể cựu quân nhân mới sang Mỹ theo diện H.O. đã có biết bao nhiêu người quyết tâm ở lại với mục đích làm được chút gì cho quê hương. Thế nhưng, khi những người có chí dũng ấy mãn tù và đến đây, tập thể người Việt Quốc-Gia có dành cho họ chút ưu ái nào không?

 

Giữa lúc tôi cứ buồn buồn và bị ray rứt về phản ứng của một số người Việt tị nạn đối với Bùi-Tín, Dương-Thu-Hương và quý vị H.O. thì tin ông Võ-Đại-Tôn mãn tù và được đồng bào Việt tại Úc–Đại-Lợi tưng bừng tiếp đón được tung ra. Cùng chia xẻ niềm vui với mọi người, tôi tự mãn: Ít ra “phe mình” cũng có một người được đón tiếp một cách trịnh trọng và nồng nhiệt như vậy.

 

Sự đón tiếp nồng nhiệt của tập thể người Việt tị nạn dành cho ông Võ-Đại-Tôn đã nói lên tất cả lòng thương yêu, sự quý trọng của họ đối với một người đã thật sự làm chấn động dư luận thế giới trong cuộc họp báo được trực tiếp truyền hình và truyền thanh ngày 13-07-1982 tại Hà-Nội.

 

Xuất xứ, ông Võ-Đại-Tôn là một sĩ-quan Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa và cũng là một cá nhân trong tập thể tị nạn chúng ta. Nhưng từ sau cuộc họp báo lịch sử đó, danh từ riêng Võ-Đại-Tôn đã vượt ra ngoài mọi sự bình luận, mọi sự phê phán, mọi sự cân nhắc. Danh từ riêng Võ-Đại-Tôn đã vượt lên tất cả để tiêu biểu một cách xứng đáng cho tinh thần bất khuất, ý chí dũng cảm của Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa và của người Việt Nam trước kẻ thù chung – cộng sản Việt Nam (csVN).

 

Đây không phải là lần đầu tiên tôi nói đến ông Võ-Đại-Tôn. Trong một lần phát biểu cảm tưởng nhân kỷ niệm ngày Quân-Lực, năm 1986, tôi đã nói: “...Hình ảnh người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa sẽ không còn được nhắc nhỡ nhiều nếu không có một Võ-Đại-Tôn làm chấn động dư luận thế giới vì tấm lòng tha thiết với non sông...” 

 

Bây giờ, sáu năm sau, nơi đây, tôi không đủ ngôn từ để nói đến cái Dũng và Trí của ông Võ-Đại-Tôn – mà tôi chỉ xin phép được nói đến tâm hồn lãng mạn, rất nghệ sĩ của nhà thơ Hoàng-Phong-Linh Võ-Đại-Tôn.

 

Từ lâu, cả thế giới và tập thể tị nạn chúng ta nhìn ông Võ-Đại-Tôn dưới hình ảnh một chiến sĩ đầy quả cảm. Sau khi ông Võ-Đại-Tôn ra tù, chúng ta mới ngạc nhiên khi được biết rằng: Từ chốn tận cùng của khổ nhục, từ những rung động thầm kín, từ những khắc khoải thâu đêm, hồn của dũng sĩ đã sáng tạo những vần thơ ướt lệ không thua gì một nhà thơ đã thành danh. Đúng như Novalis đã nói: “Poetry heals the wounds inflicted by reason”.

 

Kính thưa quý vị, thi sĩ ẩn núp bên trong người võ biền Võ-Đại-Tôn là nhà thơ Hoàng-Phong-Linh.

 

Thi phẩm tôi muốn giới thiệu đến quý vị hôm nay là Tiếng Chim Bên Dòng Thác Champy, do nhà xuất bản Bất-Khuất ấn hành, dày 119 trang, gồm 34 bài, viết theo đủ thể loại.

 

Mở đầu, Hoàng-Phong-Linh trang trọng tưởng niệm phục quốc quân Vũ-Hoài. Trang Thay Lời Tựa, tác giả Hoàng-Phong-Linh gửi gấm: “... Xin mời các bạn đi vào thơ tôi với chút niềm cảm thông suy lắng, chút ngậm ngùi bâng khuâng. Xin đừng phủ phàng đạp mạnh – trời Thơ động vỡ hồn tôi.”

 

Nếu quý vị đọc xong tập thơ và suy gẫm, quý vị sẽ thấy lời nhắn gửi của Hoàng-Phong-Linh rất khiêm nhường.

 

Để dành những giây phút thích thú cho quý vị khi quý vị đọc và thưởng thức tập thơ, nơi đây tôi không làm công việc phân tích – mà tôi chỉ xin trình bày một cách khái lượt để quý vị có một khái niệm tổng quát về toàn thể tập thơ.

 

Bài thơ đầu tiên, Tiếng Chim Bên Dòng Thác Champy, được tác giả chọn làm tựa đề cho thi tập. Ngay những dòng đầu, tác giả đã vẽ ra một cuộc chia ly vĩnh viễn đầy tức tưởi:

Em cứ nằm yên đấy,
Bên dòng thác Champy
Con đường chúng ta đi,
Đã vô cùng gian khổ.
Dăm mảnh đá xanh rêu thành nấm mộ,
Anh đắp lên cùng với cả tình anh.
Em đã đi qua bao thác bao ghềnh.
Đường về quê nay trở thành tử lộ....

 

Đọc những dòng này, nếu không thấy những dòng tác giả đề tặng cố phục quốc quân Vũ-Hoài, độc giả cũng vẫn cảm nhận được nỗi đau của một người khi thấy chiến hữu của mình gục ngã. Nỗi đau ấy dẫm nát hồn người ở lại. Từ nỗi đau thương quằn quại đó, tâm hồn nghệ sĩ trong người võ biền Võ-Đại-Tôn vươn lên để thi vị hóa một cảnh đời nghiệt ngã:

 

Rồi từ đấy – trong rừng vắng từng đêm
Hay mỗi sáng sương mờ ôm đỉnh núi,
Trên cành vắt mình qua khe suối
Con chim buồn đứng hót tiếng cô đơn!

 

Tôi nghĩ, câu “Con chim buồn đứng hót tiếng cô đơn” là tiếng than thầm gửi người vừa nằm xuống, và đồng thời cũng là lời tự hứa của tác giả đối với chiến hữu bạc mệnh, để tiếp nối đoạn đường gian khổ, với mục đích thực hiện hoài bảo giải phóng quê hương khỏi ách bạo tàn của csVN. Nhưng oái ăm thay:

 

Đường quê hương, anh ngã ngựa không ngờ,
Trong phút chốc trở thành tên chiến bại.
Em là chim trên ghềnh xa hót mãi.
Anh là chim trong bốn vách tù cao....

 

Tiểu sử của nhà thơ Hoàng-Phong-Linh in đậm nét ở giai đoạn này. Trên thi đàn Việt-Nam không phải chỉ có một Hoàng-Phong-Linh vừa là chiến sĩ, vừa là thi sĩ; cũng không phải chỉ có Hoàng-Phong-Linh mới sáng tác thơ trong tù. Nhưng quả thật, trong những nhà thơ Việt-Nam chỉ có một nhà thơ Hoàng-Phong-Linh mới rời cuộc sống đầy đủ, lìa bỏ điều kiện tự do sáng tác tại hải ngoại để trở về dành lại vùng trời xưa yêu dấu.

 

Khi thất bại Hoàng-Phong-Linh cũng không hề nao núng, vẫn là “chim trong bốn vách tù cao.” Tôi nghĩ câu này biểu lộ sự cao ngạo/ngang tàng của một chiến sĩ và thể hiện rõ rệt cái “ngông” rất dễ thương của một nghệ sĩ. Và câu thơ này cũng khiến tôi nhớ đến câu nói của William Ernest Henley: “My head is bloody but unbowed”.

 

Suốt tập thơ hơn 30 bài, độc giả sẽ bắt gặp rất nhiều câu hùng tráng. Nhưng, như tôi đã thưa ở đoạn trên, tôi chỉ xin đi vào thế giới tình cảm/thế giới lãng mạn của một chiến sĩ mà thôi. Với mục đích đó, xin quý vị đọc những vần thơ sau đây:

 

“Ánh trăng soi vằng vặc.
Dòng tơ trời lung linh,
Xuyên qua song cửa sắt,
Vào thăm ta tự tình...”

 

Tuy không thấy tác giả dùng từ ngữ “cô đơn” hay “buồn”, nhưng hình ảnh vầng trăng biểu tượng cho sự cô lẻ, đơn độc và song cửa sắt biểu hiệu cho chốn lao tù, khiến người đọc thấm thía được nổi quạnh quẽ của người tù biệt giam. Rồi:

 

“...Trăng nhìn ta hiu hắt.
Ta nhìn trăng tái tê.
Trong gió mùa đông bắc,
Kẻng thù nghe lê thê…”

 

Khi người tù mở rộng tâm tư để đón nhận ân sủng của thiên nhiên thì tiếng kẻng nhà tù vang lên, đưa người tù trở về thực tại. Trong cõi quạnh hiu này, âm vang của tiếng kẻng nghe đồng vọng xa xôi khiến người tù não nùng khi nghĩ đến chuỗi ngày dài vô vọng sắp tới của mình!

 

Nhà tù có thể giam giữ thân xác, nhưng không thể kềm giữ được tâm hồn và sự suy nghĩ của bất cứ một ai cả. Bởi vậy, tâm hồn của nhà thơ Hoàng-Phong-Linh mới vượt khỏi, vút cao, tìm về dĩ vãng êm mơ với những dòng mật ngọt trong bài Paris, Em:

 

“Giọt lệ buồn bên tháp Eiffel
Trời mù sương hay nước mắt em,
Nhỏ xuống hồn ta thành mộng mị.
Sầu thương tím ngắt một dòng Seine...”

 

Ở những dòng thơ này chúng ta bắt gặp nỗi nhớ mênh mông của thi sĩ hướng về buổi chia xa nào đó mà lòng thi nhân không thể nào quên lãng được. Vì không quên được, thi sĩ đành nhắn nhủ người xưa:

“...Ta vẫn tìm em qua dáng mộng.
Thuyền xưa về lại bến tình sông.
Hãy giữ cho ta dòng lệ ấm,
Cho dù trời lạnh mấy mùa đông!”

 

Có ai nghĩ đến người xưa mà lòng không chĩu nặng u hoài? Hoàng-Phong-Linh cũng vậy. Nhưng khi đang đắm hồn trong niềm thương, nỗi nhớ, bất chợt nhận ra thực trạng của mình, Hoàng Phong Linh tự thán:

 

“... Xin tạ từ màu mắt của em xanh,
Trong hồn ta trái mộng đã rơi cành...”

 

Hoặc:

 

“Trắng tay thua một cuộc cờ,
May ta còn lại nàng thơ trong tù!”

 

Mặc dù đã có nàng thơ bầu bạn, Hoàng-Phong-Linh cũng vẫn không thể nguôi sầu; vì Hoàng-Phong-Linh là phần hồn của một dũng sĩ. Mà, một dũng sĩ có nguôi sầu được không khi quê hương còn lầm than, bạn hữu còn khổ nhục trong vòng lao lý và đồng bào còn đang quằn quại dưới sự thống trị khắc nghiệt của csVN? Vì vậy, đôi khi dũng sĩ Hoàng Phong Linh cũng phải thở dài:

 

“Đêm nghe vẳng tiếng còi tàu
Xuôi Nam hay ngược hướng nào, về đâu?
Xin ngừng cho nhắn đôi câu,
Nếu toa còn trống, chở sầu dùm ta!”

 

Sau những lúc yếu đuối vì tình cảm bị chi phối, Hoàng-Phong-Linh lại trở về với bản tính ngang tàng đầy khí phách của một người hùng:

 

“Ban ngày dù cá chậu
Ban đêm vẫn đại bàng.
Giữa buồng giam tôi cất tiếng cười vang!”

 

Từ thái độ trầm tĩnh và lời xác quyết dứt khóat trong lần họp báo quốt tế do csVN tổ chức – ngày 13-07-1982 – cho đến thái độ cao ngạo lúc sống trong tù của ông Võ-Đại-Tôn, chúng ta thấy rằng ông Võ-Đại-Tôn là một người trước sau như một: Lúc nào cũng sống hiên ngang và chấp nhận hoàn cảnh để mưu đồ việc lớn. Đó là nhân sinh quan của kẻ sĩ.

Trong bài Lời Viết Cho Con, nhà thơ Hoàng-Phong-Linh Võ-Đại-Tôn cũng truyền đạt đến người con trai duy nhất của Ông tinh thần dũng cảm của một kẻ sĩ:

 

“...Chí kình ngư trong bốn bể mênh mông,
Không thể sống cùng sông ngòi phẳng lặng.
Cánh đại bàng vỗ tung trời hoa nắng,
Không chập chờn cùng chim sẻ quanh sân…”

 

Trong một môi trường mà ai cũng nặng lòng mong cho con giật được mảnh bằng đại học, có việc làm tốt, lương cao, nhà lớn, xe đắt tiền, v.v… thì những lời thơ của ông Võ-Đại-Tôn Hoàng-Phong-Linh viết cho con trai có bị xem là lập dị hay không?

 

Thưa không! Đó là tinh thần của kẻ sĩ Đông-Phương mà nền giáo dục Hoa-Kỳ chưa bao giờ đưa vào học đường.

 

Dù là một người có chí lớn, đầy nghị lực để chấp nhận gian khổ, nhục nhằn, đôi khi ông Võ-Đại-Tôn Hoàng-Phong-Linh cũng mềm yếu, thấy mình bất lực trước nỗi điêu linh của dân tộc. Những lúc ấy tác giả phải nương vào sự huyền nhiệm của đấng thiêng liêng để tâm hồn được lắng đọng:

 

“…Và đêm nay
Trong âm thầm ngục tối
Con lạc loài như một ánh sao sa!
Lạy Mẹ Maria,
Hồn con dâng tiếng khóc,
Quê hương con là ngục tù tang tóc,
Bao năm rồi dòng máu chảy trong đêm.
Đường Thánh-Giá sao cứ mãi dài thêm,
Đời khổ nhục, đá cũng tan thành lệ!...”

 

Là một người ngoai đạo, nhưng với tôi, những dòng vừa trích dẫn ở đoạn trên là những dòng thơ hàm xúc nhất, tạo được cảm nhận sâu xa nhất giữa tác giả và người đọc.

 

Bằng những lời thơ bình dị, không làm dáng và ý thơ đậm đà cùng lối gieo vần nhẹ nhàng, nhà thơ Hoàng-Phong-Linh Võ Đại Tôn đã trải rộng nỗi lòng của Ông với Quê Hương, với đồng đội, với bằng hữu. Ông cũng dành cho vợ trái tim nồng ấm và truyền cho con ý chí bất khuất. Và trên tất cả, Hoàng-Phong-Linh cho người đọc thấy rõ sự vi diệu của niềm tin.

 

Tôi nghĩ, chỉ với hơn một trăm trang giấy mà nhà thơ Hoàng-Phong-Linh Võ-Đại- Tôn đã giàn trải được tất cả những điều đó thì thật là tuyệt vời!

 

Xin độc giả đón nhận thi phẩm Tiếng Chim Bên Dòng Thác Champy của nhà thơ Hoàng-Phong-Linh Võ-Đại-Tôn với tất cả nhiệt tình như quý vị đã hân hoan đón mừng chiến sĩ Võ-Đại-Tôn sau khi Ông trở về từ ngục sâu.

 

Trước khi dứt lời, tôi xin cảm ơn ban tổ chức đã dành cho tôi vinh dự được giới thiệu tác phẩm Tiếng Chim Bên Dòng thác Champy; và tôi cũng xin trân trọng cảm ơn quý vị quan khách đã lắng nghe./.

 

 

ĐIỆP MỸ LINH

https://www.diepmylinh.com/ 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Trịnh Y Thư vừa ấn hành tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, gồm nhiều bài viết trong nhiều chủ đề đa dạng, phần lớn là về văn học nghệ thuật, đôi khi là lịch sử, khoa học, xã hội. Tuyển tập dày 294 trang, đang lưu hành trên các mạng, như Amazon và Barnes & Noble. Nhìn chung, tác phẩm giúp độc giả soi rọi thêm nhiều cách nhìn đa dạng, mới mẻ, kể cả khi tác giả viết về những người viết chúng ta đã quen thuộc trong văn học Việt Nam, như về Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khánh Minh, và nhiều người khác...
Hans Fallada, tên thật là Rudolf Ditzen, người đã sống giữa những biến động của nước Đức — từ sự sụp đổ của Đế chế, đến cơn bão của Thế chiến thứ nhất, rồi bước vào cơn ác mộng của Đệ tam đế chế. Trước chiến tranh, Fallada là một nhà văn nổi tiếng, tác giả của Little Man, What Now?, được Hollywood dựng thành phim. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền, ông bị cấm xuất bản, bị Gestapo rình rập, và bị ép phải viết những tác phẩm phục vụ tuyên truyền. Tưởng chừng như bị nghiền nát giữa bạo lực và sợ hãi, ông lại tìm thấy trong ngục tối một đường sống của tâm hồn – viết. Trong ngục tối, ông bí mật viết nên ba cuốn tiểu thuyết mã hóa, và sau chiến tranh, vừa thoát xác một người sống sót, ông viết cuốn cuối cùng: Mỗi người đều chết một mình (Every Man Dies Alone).
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt trong hành trình của Ocean Vuong (1). Nhà văn, nhà thơ gốc Việt nầy đã trở thành một trong những khuôn mặt quan trọng nhất của văn chương Mỹ đương đại. Không còn là “hiện tượng thơ”, không còn được biết đến qua nỗi đau di dân, không còn đứng trong hào quang của Night Sky with Exit Wounds hay thành công bất ngờ của On Earth We’re Briefly Gorgeous trước đây, Ocean Vuong năm 2025 là một nhà văn đang mở ra biên giới mới của chính mình với The Emperor of Gladness, NXB Penguin Press, New York, 2025)...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Vâng, cảm ơn nhà thơ thiền sư Thiện Trí. Ý nghĩa rất minh bạch, rằng hãy về thôi. Về thôi, về mặc Cà Sa / Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương... Hiển nhiên, không phải là đổi y phục, mà phải là chuyển hóa nội tâm. Cởi áo Ta Bà không đơn thuần là rời bỏ đời sống cư sĩ hay thế tục, mà là buông bỏ tâm vọng động, tâm phân biệt, tâm chấp ngã vốn đã bị phong sương của sinh tử bào mòn. Mặc áo Cà Sa không nhất thiết là khoác lên mình chiếc áo của người xuất gia, mà là khoác lên tâm từ bi, trí tuệ, và vô ngã.
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng nhân kỷ niệm 50 năm xa quê hương sống đời viễn xứ (1975-2025). Sách được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac.
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...
Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, “Hạt U Minh.” Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.