Hôm nay,  

Chánh Pháp Số 114, Tháng 05.2021

02/05/202115:35:00(Xem: 2467)

biachanhphap114
Hình bìa của nguyendinhson067 (pixabay.com)



NỘI DUNG SỐ NÀY:

· THƯ TÒA SOẠN, trang 2

· TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 4

· NHỚ VỀ MÙA XUÂN NĂM ẤY (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8

· ĐỨC PHẬT – NHÀ ĐẠI CÁCH MẠNG (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9

· ĐIẾU LA THÀNH CA GIẢ (thơ Nguyễn Du – Chúc Hiền dịch), trang 12

· LỤC TỔ HUỆ NĂNG – BA CHẶNG ĐƯỜNG, MỘT ĐỜI SỐNG (Thích Nguyên Siêu), trang 13

· HƯƠNG LÒNG TRONG MÙA PHẬT ĐẢN (thơ Tánh Thiện), trang 15

· THA THỨ ĐỂ HÓA GIẢI OÁN THÙ (Quảng Tánh) trang 16

· CHƯ PHẬT ĐẢN SINH… LIÊN HỆ GIỮA KINH A-HÀM VÀ THIỀN TÔNG (Chân Hiền Tâm), trang 17

· CHÙM THƠ KHÔNG ĐỀ (thơ Trần Hoàng Vy) trang 19

· MÙA PHẬT ĐẢN GIỮA ĐẠI DỊCH CORONA VIRUS (TN Giới Hương), trang 20

· 9 BÀI HÀI CÚ CỦA MASAOKA SHIKI (Pháp Hoan dịch), trang 23

· ĐỨC PHẬT LÀ AI? (Rick Fields – Thích Nguyên Tạng dịch), trang 24

· TỪNG BƯỚC ĐI HẠNH PHÚC (Thích Phước Mỹ), trang 27

· NGHĨ DƯỚI VÒI SEN (thơ Tôn Nữ Thanh Yên), trang 32

· CON ĐƯỜNG THỐNG NHẤT, t.t., VNPG Sử Luận, Chương 35 (Nguyễn Lang), trang 33

· THƠ MUÔN ĐỜI SỐNG VỚI CHÚNG TA (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 37

· ƠN NGÀY BAO DUNG, ƠN TRẦN GIAN, ƠN NỤ CƯỜI (thơ Nguyễn Thị Khánh Minh), trang 38

· BA PHÁP ẤN – Câu Chuyện Cuối Tuần (Nhóm Áo Lam), trang 39

· THÔNG ĐIỆP ĐẦU TIÊN (Thị Giới), trang 40

· MỘT LẦN ĐÁP XUỐNG (Huệ Trân), trang 47

· NHỚ NHÀ, NHỚ BẠN (thơ Phù Du), trang 48

· HÔI MIỆNG (Bs. Nguyễn Ý Đức), trang 49

· CHIỀU NGHE TIẾNG CHIM CU (thơ Mặc Phương Tử), trang 51

· CON THUYỀN NGƯỢC NƯỚC, t.t. (Nguyễn Minh Tiến), trang 52

· TRÙNG TRÙNG DUYÊN KHỞI, GIỌT LỆ (thơ Xuyên Trà), trang 54

· THE STORY OF THE BHIKKHU WHO HAD BEEN A TRAINER OF ELEPHANTS (Daw Tin), trang 55

· CHIM CÚ MÈO (thơ TM Ngô Tằng Giao), trang 56

· NẤU CHAY: BÁNH TRÁNG TRỘN XOÀI CHAY (G. Phượng) trang 57

· ĐỨC PHẬT (thơ Diệu Viên), trang 58

· AIDA MITSUO VÀ NHỮNG VẦN THƠ THỨC TỈNH MỘNG ĐỜI (Hoàng Long), trang 59

· ĐỐI THOẠI VỚI “QUỶ VƯƠNG PHIỀN NÃO” (Đào Văn Bình), trang 62

· CHÙM TỨ CÚ LỤC BÁT VỀ “MỞ & KHÉP” (thơ TK Vĩnh Hữu), trang 64

· TRUYỆN CỰC NGẮN (Steven N.), trang 65

· MÀU NẮNG VÔ ƯU (Lam Khê), trang 67

· CẦU KIẾN (Tiểu Lục Thần Phong), trang 70

· DỨT BỎ ẢO TÌNH (Truyện cổ Phật giáo), trang 73

· LÊN HANG THẤT DIỆP NGUYỆN CẦU (thơ Thục Uyên), trang 75

· NGÕ THOÁT – chương 6 (truyện dài Vĩnh Hảo), trang 81


http://chanhphap.us/CP%20published%20issues/2021/ChanhPhap%20114%20(05.2021).pdf

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.