Hôm nay,  

Mùa Hè Và Phượng Vỹ Ở Togo

23/05/202106:09:00(Xem: 3787)

 

Ngày còn là sinh viên Đại học U.C. Berkeley, trưa thứ Sáu nắng đẹp anh em trong ban chấp hành Hội Sinh viên Việt Nam thường đem bàn, ghế ra ngồi ngoài Sproul Plaza để quảng bá sinh hoạt, tạo cơ hội cho các bạn ghé thăm nhau, chia sẻ buồn vui hay tán gẫu sau một tuần học hành căng thẳng.

 

Những buổi trưa như thế, tôi đi loanh quanh dưới hàng cây xanh rợp bóng mát, chụp vài pô hình, ghé vào bàn của các hội đoàn sinh viên khác xem có những hoạt động gì.

 

Vài chục hội sinh viên mang nhiều sắc thái, như các hội sinh viên Taiwan, Hong Kong, Philippines, Hàn quốc, Nhật là cùng gốc Á Châu, còn có hội sinh viên Do Thái, sinh viên Iran. Theo ngành nghề có hội sinh viên dự bị y khoa (Pre-Med), sinh viên khoa thương mại, kỹ sư. Quan điểm chính trị có hội sinh viên cộng hoà, dân chủ, có bàn xin chữ ký phản đối Hoa Kỳ can thiệp vào El Salvador, vào Iran.

 

Vào mùa xuân có bàn của các công ti tài chính thương mại tuyển người, nhiều công ti máy tính đang cần kỹ sư sắp ra trường.

 

Có bàn đề tên Peace Corps. Tôi ghé tìm hiểu và được biết tổ chức này tuyển sinh viên vừa tốt nghiệp đại học đi giúp các nước kém phát triển ở nhiều nơi trên thế giới. Một điều kiện cần có là tình nguyện viên phải là công dân Mỹ.

 

Lúc đó tôi vẫn còn là thường trú nhân. Hè năm 1982 tôi tuyên thệ nhập tịch và trở thành công dân Hoa Kỳ. Tháng 10 tôi điền đơn xin gia nhập Peace Corps.

 

Sau thời gian hoàn tất thủ tục với giấy giới thiệu của các giáo sư, bạn bè và từ những nơi đã làm việc, cùng hồ sơ an ninh từ ty cảnh sát, đầu năm 1983 tôi nhận được thư Peace Corps báo tin tôi sẽ được gửi qua Togo dạy học.

 

Peace Corps được Tổng thống John F. Kennedy khai sinh vào năm 1961. Câu nói của vị tổng thống trẻ tuổi: “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho bạn mà hãy tự hỏi, bạn đã làm được gì cho tổ quốc chưa” là những thúc đẩy cho tôi có lý tưởng phục vụ quốc gia, nhân loại từ thời niên thiếu ở quê nhà. Hơn nữa là một người tị nạn đã được Hoa Kỳ nhận cho định cư, tôi biết ơn xứ sở này và muốn đáp đền, đóng góp cho đất nước đã cho tôi được sống trong tự do, dân chủ.

 

Một chi tiết về liên hệ sớm nhất giữa Peace Corps và Đại học U.C. Berkeley là khi toán tình nguyện viên đầu tiên được gửi ra nước ngoài, trước khi đến Ghana, Phi Châu mùa hè năm 1961 thì các buổi hướng dẫn đã được tổ chức tại đây.

 

Trước khi rời Hoa Kỳ, tôi ghé vùng thủ đô chào những người thân quen, rồi đến Philadelphia tham gia chương trình hướng dẫn kéo dài một tuần.

 

Đoàn chúng tôi gồm tất cả 45 người đến từ Iowa, California, Florida, Minnesota, Massachussetts, Kentucky, Hawaii, Texas, Indiana…, đa số trong lứa tuổi 20, vừa tốt nghiệp đại học, có bạn từ Ivy League. Có bạn trong lứa tuổi 30 và dăm người ở tuổi 60, có bạn đã có nhiều kinh nghiệm dạy học.

 

Các buổi huấn luyện đều nhằm thử sức xem chúng tôi có đủ khả năng và can đảm sống trong một môi trường hoàn toàn xa lạ với đời sống Mỹ. Chúng tôi bàn về tình bạn, những người thân sẽ bỏ lại, những bạn mới sẽ gặp. Làm sao để làm việc và thích ứng với hoàn cảnh mới. Làm sao tìm được những niềm vui, trò giải trí ở một nơi không tivi, rạp hát, không điện nước hay tiện nghi vật chất.

 

Chúng tôi viết kịch bản ngắn và diễn theo một chủ đề. Đang giảng bài, có học trò nói thày viết sai chính tả, ông hiệu trưởng tình cờ đi ngang lớp nghe thấy, bắt em đó lên đứng trước lớp phạt cho mấy roi tre vào tay, trong trường hợp đó, là thầy giáo của lớp bạn sẽ phản ứng ra sao. Hay khi có học trò muốn giúp mình trong việc quét nhà, giặt giũ thì phải làm sao. Trò chơi văn hoá alfafa làm tôi và nhiều bạn nhức đầu tìm câu giải đáp.

 

Buổi tối trước ngày từ giã Hoa Kỳ, tôi và Rick cùng Liz là cặp vợ chồng mới quen rủ nhau đi ăn cơm tối ở tiệm Vinh Hoa mà tôi tìm được địa chỉ trong cuốn niên giám điện thoại khu vực. Với tôi có lẽ đây là lần cuối được thưởng thức món ăn Việt, vì không trông mong tìm thấy hương vị quê nhà nơi đất Phi Châu trong hai năm tới.

 

Trưa ngày 16/6/1983 chúng tôi lên đường. Việc khởi hành bằng xe buýt ra phi trường phải đình hoãn ít lâu vì một bạn không có mặt trên xe. David còn bận bịu nói chuyện điện thoại với cô nhân tình mà anh để lại. Anh nói chúng tôi cứ đi trước và sẽ gặp lại ngoài phi trường.

 

Trong đoàn có Gregg và Jennifer thông thạo tiếng Pháp nên được chỉ định làm hướng dẫn viên cho chúng tôi từ đây cho đến khi máy bay đáp xuống Togo.

 

Máy bay cất cánh rời phi trường Philadelphia lúc 12 giờ trưa. Sau các trạm dừng và chuyển máy bay ở New York, Pháp, Thụy Sĩ và Ivory Coast, phi cơ của hãng Air Afrique đáp xuống phi trường Thủ đô Lomé, Togo xế chiều ngày 17/6.

 

Trời bỗng dưng mưa lớn. Từ cửa sổ phi cơ tôi không thấy gì ngoài hàng chữ Tokoine Aeroport bằng điện mầu xanh lá cây nổi bật trên nền trời xẫm. Phi đạo vắng ngắt. Xa xa chỉ thấy một máy bay khác nơi đuôi có hàng chữ KLM.

 

Trời tạnh mưa. Vừa ra khỏi cửa phi cơ thì một luồng hơi nóng và ẩm thổi vào người. Nó đem đến cho tôi chút hương thơm quen thuộc của mùa mưa ở Việt Nam.

 

Không như các phi cảng ở Mỹ, hành khách lên xuống máy bay theo thang dẫn từ cửa phi cơ vào đến bên trong, ở đây chúng tôi xuống thang máy bay, lên xe buýt để được đưa vào sảnh.

 

Thủ đô Lomé nằm ở ven biển và có những nét giống Biên Hoà hay thành phố Tijuana của Mexico ở sát biên giới California mà tôi đã qua chơi vài lần. Những con đường tráng nhựa nhưng thiếu đèn lưu thông, xe máy và người qua lại không theo một hướng nhất định nào.

 

Xe buýt đưa chúng tôi về khách sạn Le Prince nằm trên một con đường đất đỏ nhiều chỗ ngập nước, trong một khu cư dân.

 

Togo là một giải đất nhỏ gần đường xích đạo, nằm ép giữa Ghana và Bénin ở phía tây của Phi Châu. Vùng đất này trước là thuộc địa của Đức, Anh rồi Pháp và mới được trao trả độc lập năm 1960. Dân số khoảng 3 triệu người da đen và gồm nhiều sắc dân trong đó người Kabiyes, Ewes là chính. Dân Togo nói nhiều thổ ngữ khác nhau và dùng tiếng Pháp là ngôn ngữ chính. Đa số thờ vật tổ và cũng có nhiều người theo đạo Hồi, đạo Thiên Chúa.

 

Ngày đầu ở Togo, ra đường gặp đám trẻ nhỏ gọi chúng tôi “yovo, yovo” có nghĩa là những người da trắng. Đó là một từ của tiếng Ewe mà chúng tôi mau chóng học được.

 

Cảnh vật, không khí ở Togo làm tôi hồi tưởng quê nhà Việt Nam, từ khí hậu nóng ẩm, con đường đất ngập nước sau cơn mưa, những cây phượng đang nở hoa đỏ; những cây đu đủ, cây na xanh lá nhiều trái. Bên đường có bắp ngô nướng trên bếp than cạnh những sạp hàng; trong chợ có bán mãng cầu, na. Những hình ảnh, những cây trái mà tôi đã không còn thấy từ ngày rời quê hương ra đi tị nạn ở Mỹ.

 

Ở Lomé vài ngày để hoàn tất các thủ tục y tế và giấy tờ cần thiết, sau đó đoàn được chia theo nhóm công tác và được đưa về mấy nơi để qua chương trình huấn luyện “total immersion”.

 

Nhóm toán, lý hoá và sư phạm về thành phố cao nguyên Aktapamé, cách Lomé 160 cây số về hướng bắc. Đây là nhóm đông nhất với 20 tình nguyện viên, 16 sẽ dạy toán, lý hoá và 4 làm giảng viên sư phạm Anh ngữ.

 

Trên đường đi, xe chạy qua những làng mạc cho tôi cảm giác như đang về vùng thôn quê nước Việt. Khi qua một thị xã bên đường có phượng đỏ lại khiến lòng bồi hồi nhớ thuở học sinh. Những điều tôi học được trong hai tuần qua về hệ thống giáo dục Togo thì lúc này các em học sinh lớp 11 và 12 đang lo ôn bài cho các kỳ thi tú tài nhiều cam go. Như tôi đã trải qua vào mùa hè một thập niên trước khi còn ở quê nhà.

 

Theo chương trình huấn luyện, mỗi ngày chúng tôi có 7 giờ để học tiếng Pháp, văn hoá Togo và sư phạm. Ăn uống chung như ở trong ký túc xá. Chỗ ngủ là căn phòng lớn chia ra thành những khuông nhỏ 2 mét bề ngang, 4 mét bề dài, trong có giường và mùng ngăn muỗi.

 

Mới đến Togo vài tuần thì tôi bị bệnh. Người mệt mỏi và sốt. Nghi ngờ sốt rét vì khi trời tối xuống, ngồi ôn bài là muỗi bu quanh, vo ve bên tai, trên đầu nên tôi dùng tay đập muỗi liên tục. Lạ là các bạn khác ngồi quanh không bị muỗi cắn. Bạn đùa bảo tôi chưa ăn bơ uống sữa đủ, tôi cũng giỡn chơi nói chắc là muỗi thích nước mắm hơn.

 

Tôi đã uống thuốc theo căn dặn của bác sĩ, một tuần trước khi rời Hoa Kỳ và từ khi sang đây mỗi sáng Chủ Nhật đều uống chloroquine. Người phụ trách huấn luyện quyết định đưa tôi về thủ đô để chữa trị.

 

Sau khi thử máu và nước tiểu, bác sĩ riêng của Peace Corps xác nhận tôi bị sốt rét. Ông nói tôi là người lớn lên ở Việt Nam đúng ra không bị sốt rét nữa, nhưng tôi vẫn bị và ông không hiểu vì sao. Một chục viên ký ninh là khỏi, nhưng phản ứng của thuốc đã làm tôi ói mửa, mờ mắt, chóng mặt mấy ngày liền trước khi hết bệnh.

 

Vài tuần lễ đầu tinh thần có lúc xuống thấp vì bị bệnh như tôi hay có mấy bạn bị tiêu chảy liên tục. Vài bạn đã xin về lại Hoa Kỳ, hai bạn lớn tuổi cảm thấy học một ngôn ngữ mới quá khó khăn, một bạn trẻ từ Hawaii thấy không hợp với đời sống mới. Hai chữ E.T. (Early Termination) trở thành ngôn từ không đẹp và làm chúng tôi lo lắng vì không biết có vượt qua được khó khăn, thử thách trong giai đoạn huấn luyện hay không.

 

Học Pháp văn trong lớp với một thầy và chỉ có 2 hay 3 học trò nên phải tập nói liên tục. Tôi gặp trở ngại phát âm lẫn lộn Anh, Pháp và dùng mạo tự “le, la, les” không đúng. Cái nhà là “la maison” mà cứ nói “le maison” thì không ai hiểu tôi muốn nói gì, vì thế văn phòng cho tôi thêm một giờ trong ngày học riêng với một thầy để luyện phát âm và dùng mạo từ.

 

Có những buổi học chúng tôi được ra ngoài thực tập ở chợ, hàng quán, tiệm sách, được đi thăm giới chức làng xã, xem những sinh hoạt múa ca của dân địa phương.

 

Cuối tuần không có ăn chung, văn phòng cấp tiền “walk around” cho chúng tôi ra ngoài tìm hàng quán, chọn mua thức ăn để có cơ hội giao tiếp với người dân và hiểu hơn đời sống địa phương. Món fou-fou còn xa lạ nên không thử, nhưng có cơm ăn với sauce gombo, nhớt như canh rau đay mùng tơi, hay gà nấu bơ đậu phộng (peanut butter). Chúng tôi thích nhâm nhi bia BB với gà hay bò nướng than, ngon tuyệt.

 

Người dân ở đây tính tình vui vẻ, thích nhún nhẩy theo điệu nhạc và rất thân thiện, cởi mở. Riêng với tôi, khi thấy mình thay vì gọi “yovo, yovo” họ lại nói “ni hao, ni hao”. Nếu gặp trẻ nhỏ là các em vung tay lên như múa võ. Thật là ngạc nhiên khi nhận ra nét văn hoá Á Châu mà người dân Togo biết lại là tiếng chào và bài quyền múa võ.

 

Mỗi ngày, sau giờ học chúng tôi chơi bóng chuyền. Cơm tối xong dành thời giờ ôn bài. Thỉnh thoảng rủ nhau ra bistro uống bia, nghe nhạc.

 

Đầu tháng 8 về lại Thủ đô Lomé để dạy thực tập trong các lớp do bộ giáo dục tổ chức tại Collège Protestant. Trong bốn tuần, buổi sáng mỗi tình nguyện viên lên lớp dạy một tiết.

 

Dù mới học tiếng Pháp tôi cũng đã nói được và đủ từ vựng khoa học để thực tập giảng bài. Nội dung vật lý không có gì khó khăn, chỉ cần cố gắng dùng ngôn ngữ mới. Khi vừa đến Mỹ tôi đã làm tutor (dạy kèm) toán mấy năm, đó cũng là cách giúp mình học một ngoại ngữ nhanh, khi mà chuyên môn mình biết rành.

 

Buổi chiều có giảng viên sư phạm là cựu tình nguyện viên và giới chức giáo dục góp ý giúp cải tiến cách giảng dạy cho từng tình nguyện viên.

 

Cuối tuần tôi và mấy bạn hay đạp xe vào trung tâm thành phố, đi qua con đường mà hôm mới tới mấy cây phượng đang nở rộ, nay chỉ còn lác đác vài bông hoa đỏ.

 

Thời gian dạy thực tập, chiều chiều ghé bistro gần trường thấy có sứ quán Trung Quốc trong khu vực. Một hôm đi ngang qua, bên trong có ba bốn nhân viên đang ngồi chồm hổm trên sàn nhà lựa thư. Tìm hiểu quan hệ ngoại giao, ở Lomé có sứ quán Pháp, Mỹ, Đức, Nhật, Liên bang Xô-Viết, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên. Togo là một quốc gia trong khối phi liên kết. Chuyện “ni hao” và múa võ tôi cho là do từ phim ảnh Hồng Kông, không phải ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc ở đây.

 

Qua đầu tháng 9 chương trình huấn luyện cho các nhóm hoàn tất. Giữa tháng chúng tôi tuyên thệ trở thành tình nguyện viên Peace Corps trong một buổi lễ có sự tham dự của các nhà ngoại giao Hoa Kỳ và đại diện chính quyền Togo.

 

Khi đặt chân đến Togo ba tháng trước đoàn chúng tôi có 45 người. Lúc tuyên thệ còn 31, nhiều bạn đã bỏ cuộc vì thấy công tác có quá nhiều khó khăn.

 

Chúng tôi sẽ về phục vụ tại các tỉnh, làng mạc xa xôi từ nam chí bắc đất nước Togo. Chính phủ Togo lo chỗ ở. Chính phủ Hoa Kỳ cung cấp phương tiện di chuyển, có thể là xe máy 100 phân khối, xe Mobylette hay xe đạp tuỳ theo phải di chuyển bao xa từ nhà đến nơi làm việc và mỗi tháng được trợ cấp một số tiền để lo thực phẩm, tiêu vặt, tương đương với lương của người đồng nhiệm địa phương.

 

Về nơi công tác mỗi tình nguyện viên tự lo liệu, hoà mình vào công việc và đời sống mới với nhiều bỡ ngỡ, nhiều điều để học hỏi.

 

Nơi xứ lạ, có một điều ngạc nhiên cho tôi là ba tháng trước khi vừa xuống máy bay, ông giám đốc Peace Corps ra đón đoàn, gặp tôi ông cho biết ở đây có người Việt và quán ăn Việt. Ông đã xem hồ sơ lí lịch và biết tôi gốc Việt, nên muốn đem đến cho tôi niềm vui để đỡ nhớ quê hương nguồn cội vì dù gì tôi cũng lớn lên ở Việt Nam và mới sống ở Mỹ có tám năm.

 

Tôi nghe cũng mừng nhưng không để ý nhiều vì sau bữa cơm Việt ở Philadelphia lòng đã thầm nhủ sẽ không còn thấy nét văn hoá Việt trong hai năm tới, ngoài vài quyển sách, băng cát-sét nhạc Việt tôi mang theo.

 

Sau khi hoàn tất chương trình huấn luyện, theo sự giới thiệu của giám đốc Peace Corps, tôi tới chào xã giao ông giám đốc ngân hàng Pháp, có vợ người Việt và được ông mời ghé nhà chơi. Đó là gia đình gốc Việt đầu tiên ở Lomé tôi gặp.

 

Trước khi về tỉnh nhận nhiệm sở, tôi và vài bạn đồng hành, cũng có Rick và Liz đã cùng tôi ăn tối ở Philadelphia, tìm ăn cơm Việt ở Lomé. Từ thông tin ông giám đốc cho, chúng tôi đến quán 4eme Zone mà tôi gọi là Quán Vùng Bốn, nằm trên Boulevard Circulaire.

 

Một thiếu nữ Pháp trông dễ thương mang ra tờ thực đơn. Nhìn qua tôi thấy có mấy món nước như phở, bún và nhiều món xào. Tôi thích phở vì giá tương đối rẻ, vừa bụng và lại món quốc hồn quốc tuý. Đồ xào tôi e ngại sẽ pha nấu kiểu Tầu. Mấy bạn hỏi ý kiến, tôi đề nghị phở và mọi người đồng ý.

 

Cô tiếp viên bưng phở ra, bốn tô phở chỉ thấy bánh trắng điểm mấy lát thịt bò, không hành ngò xanh xanh, không ớt đỏ, không rau thơm, giá sống khi tôi hỏi xin. Phở mà không chút hương vị phở. Phải nói phở ở Togo nhạt nhẽo nhất mà tôi đã được nếm. Hỏi chuyện và được biết chủ nhà hàng người Li-băng, đầu bếp người Togo. Ăn thử một lần cho biết, chắc chắn tôi sẽ không trở lại quán này.

 

Các tình nguyện viên lần lượt được đưa về nhiệm sở. Tôi phải học thêm Pháp ngữ hai tuần vì thi FSI theo tiêu chuẩn của bộ ngoại giao tôi mới đạt điểm 2+, trong khi cần điểm 3.

 

Sau đó ông giám đốc đưa về thị xã Notsé nhận công tác. Bên đường Route d’Atakpamé mấy cây phượng không còn hoa đỏ như lúc tôi mới đến mà giờ đang xanh lá xum xuê, dấu hiệu hè đã qua để vào niên học mới.

 

Tôi đã trải qua một mùa hè cam go, thử thách lẫn nhiều điều thích thú nơi miền đất mới. Ngày mai tôi sẽ là thầy dạy lý hoá, cầm phấn, đứng trước bảng đen giảng bài cho học trò nơi xứ lạ.

 

 

BuiVanPhu_20210521_Togo_H01
Buổi hướng dẫn đầu tiên cho đoàn tình nguyện viên vừa đến Togo (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

BuiVanPhu_20210521_Togo_H02
Một sạp bán hàng trước cửa khách sạn nơi đoàn dừng chân (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

BuiVanPhu_20210521_Togo_H03
Mùa hè ở Togo cũng có phượng đỏ nở hoa (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

BuiVanPhu_20210521_Togo_H04
Xe đò trên xa lộ nối liền nam bắc Togo (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

BuiVanPhu_20210521_Togo_H05
Fou-fou là thức ăn hàng ngày của người dân Togo, như người Việt ăn cơm (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

BuiVanPhu_20210521_Togo_H06
Cảnh một làng quê Togo (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

BuiVanPhu_20210521_Togo_H07
Giảng viên Pháp ngữ (bên trái), tác giả và hai bạn tình nguyện viên (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

BuiVanPhu_20210521_Togo_H08
Nhóm tình nguyện viên toán lý hoá, sư phạm và các giảng viên trong thời gian huấn luyện ở Atakpamé (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

BuiVanPhu_20210521_Togo_H09
Tin trên báo La Nouvelle Marche ngày 16/9/1983 về lễ tuyên thệ của các tình nguyện viên Peace Corps (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

BuiVanPhu_20210521_Togo_H10
Quán bán thức ăn Việt ở Lomé (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

BuiVanPhu_20210521_Togo_H11
Ở Togo có các trái cây quen thuộc với người Việt (Ảnh: Bùi Văn Phú)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.