Hôm nay,  

Dòng Sông Vắn Số

04/06/202120:37:00(Xem: 3780)

 

1

 

Những tàng cây ngả nghiêng trong gió. Lá me xanh rải đầy đường. Cơn đói bò lan ra cả ngoài da. Chỉ còn hai tiếng đồng hồ nữa là tới giờ hẹn. Không còn cách nào khác. Hắn đạp xe vòng quanh con phố. Bụng quặn lên ngàn con sóng. Biển động cấp năm trong bao tử và ruột non ruột già. Nhưng cơn đói hùng hổ như thế cũng chẳng thấm thía gì so với nỗi lo âu đầy nanh vuốt của cái việc phải làm. Hắn quẹo gắt vào con hẻm. Tay lái xe vướng vào quang gánh một người đàn bà bán hàng rong. Cú giật ngược làm hắn lao đao và người đàn bà nhùng nhằng sắp ngã. Chén bát xô vào nhau loảng xoảng hai đầu quang gánh. Người đàn bà trợn ngược con mắt.
 
Có mắt hay mù vậy cha nội.
 
Xin lỗi, xin lỗi. Hắn lắp bắp. Giây phút này mọi chuyện hơn thua đều vô nghĩa.
 
Xin lỗi mụ nội tui á.
 
Câu chửi thật hiền so với những câu chửi mọc hoang như cỏ dại quanh đời sống. Lâu lắm mới lại nghe được câu chửi thật hiền.
 
Chút xíu là bể hết đồ của người ta rồi.
 
Hắn chống chân xuống đất, liếc vội hai cái thúng ở hai đầu quang gánh của người đàn bà. Những chiếc lá me xanh. Giờ này vẫn còn những chiếc lá me xanh. Đám lá me xanh rất học trò. Và gió đảo quanh những tàng cây. Gió vẫn mang hơi hướm những mùa màng đã úa. Hiếm lắm mới lại có một khoảnh khắc nắng và gió dịu dàng đan nhau. Và con người nữa, cũng dịu dàng, nhân hậu.
 
Xin lỗi chị. Hắn nói, mắt liếc thật nhanh những cái bát sành úp ngược trên mặt chiếc rổ xề. Chiếc rổ bên kia có cái nồi đen xỉn. Vài cái chai  nhỏ đựng thứ nước gì đó đen  thẫm. Chắc không là gánh bún riêu. Dạo này làm gì còn bún riêu. Ý nghĩ thoáng qua đầu hắn.
 
Xin lỗi. Hắn nhắc lại cái lời cũ rích. Tôi vội.
 
Và hắn chống chân lên bàn đạp, phóng đi. Người đàn bà sửa lại những chén bát chen chúc nhau trên mặt rổ, miệng lẩm bẩm gì đó.
 
Hắn đạp xe vẹo cả xương sống. Gió vù vù bên tai. Tiếng loa phóng thanh đổ ngập không gian. Chuyện gì lại xảy ra ở Angola đây nhỉ. Những dòng thác cách mạng. Tháng Mười, tháng Tám, tháng Ba, tháng Tư... riết rồi ngày nào cũng là ngày kỷ niệm. Hôm nào cũng là ngày lễ lớn. Ngày nào cũng có phong trào tổng nổi dậy; không chỗ này thì chỗ kia.
 
Vẫn chưa lãnh gạo à, Tuân?
 
Câu hỏi đầu tiên mẹ hắn hỏi khi vừa nghe tiếng lạch cạch của bàn đạp chiếc xe cọc cạch.
 
Hắn đẩy xe vào nhà. Không bận tâm tìm chỗ, hắn dựng đại xe vào vách tường.
 
Gạo đâu. Mẹ hắn lại hỏi.
 
Đã có đâu.
 
Hắn trả lời qua quắt rồi lủi nhanh ra nhà sau. Qua căn bếp đầy những soong chảo ám khói, tới một nếp nhà vuông vức như cái hộp xám ngắt, hắn mở khóa, đẩy cửa lách vào. Tiếng cót két nghe rợn cả người, nhưng hắn nghe đã quen. Đến mòn nhẵn cả thính giác. Căn phòng nhá nhem. Hắn đưa tay bật công tác điện. Mùi hôi mốc quen thuộc quyện quanh hắn như con chó trung thành, quẩn quanh chân chủ mỗi khi chủ vừa đi xa về tới.
 
Hắn xoay người khóa trái cửa lại.
 
Gạo không có, bo bo cũng không; lấy gì mà nấu cơm đây. Tiếng bà mẹ già thở than ở nhà trên.
 
Khóa cửa xong, lắc lắc cánh cửa cho chắc ăn, nhét chùm chìa khóa vào túi quần, hắn đi luồn ra phía sau chiếc giường gỗ, vạch tấm màn xanh cũ qua một bên, lách người vào khoảng chữ nhật đóng khung bởi ba bức tường loang lổ xi măng và lưng gỗ chiếc tủ sách mối mọt. Một chiếc kệ co ro dựa vách tường trống trải. Trên ấy bày đầy những chai lọ bằng nhựa xám, những keo thủy tinh xanh nhạt. Hắn đứng thẳng người, nhìn lướt những chiếc keo đựng bên trong toàn một thứ xám ngoắt. Không nhìn kỹ nhưng hắn vẫn cảm giác được rằng những thứ kỳ dị kia cũng nhìn lại hắn. Cả mấy năm trời sưu tầm. Kín đáo chọn lựa, tỉ mỉ cắt, tỉa, lược, lọc. Lén lút đem về nhà. Nâng niu, chăm sóc. Nhỏ to chuyện trò, thì thầm trấn an với từng thứ một. Một thứ viện bảo tàng khoa học đang thành hình. Bây giờ sắp phải xa tất cả rồi. Giấc mơ không thành. Nhưng lại là khởi điểm của giấc mơ liều lĩnh khác. Năm ăn năm thua. Lòng hắn chùng xuống như sợi dây đàn không được chỉnh đúng độ căng.
 
Những thứ lặt vặt này thì bỏ ra bãi rác được. Những thứ lặt vặt này khó có thể phân biệt được là của chủng loại nào. Những ý nghĩ chạy vòng quanh trong óc hắn. Chỉ còn cái ấy. Hắn không dám nhìn vào chiếc keo thủy tinh đựng cái ấy. Phải nghĩ ra cách nào thật hiệu quả và nhanh chóng. Hai tiếng đồng hồ nữa. Hắn đưa tay nhìn đồng hồ. Không. Chỉ còn một giờ bốn mươi phút nữa là phải đi rồi. Xuống ghe vượt biên đâu phải chuyện nhỏ. Đến trễ người ta đâu có chờ. Cơ hội không đến hai lần. Sống chết gì cũng chỉ một lần. Thiệt tình. Còn cái của nợ này không biết tính sao. Ô, xin lỗi ông. Cháu không có ý nói thế. Chẳng ai là của nợ của ai. Mình sẽ phải tìm ra cách giải quyết. Hắn xoay chiếc keo thủy tinh, thì thầm. Hãy chỉ cho cháu cách nào. Cháu muốn tìm cho Ông nơi an nghỉ thật an bình.
 
Hai mí mắt nặng nề bung lên. Hai con ngươi xám ngắt đăm đăm nhìn hắn. Hai con mắt không còn được lông mi, lông mày viền quanh. Hai con mắt đục lờ. Tim hắn thắt lại. Hai con mắt trong chiếc keo thủy tinh. Hai con mắt nhắm nghiền bấy lâu nay. Nhắm nghiền từ ngày hắn đem cái đầu của ông lão ăn mày ấy từ phòng Cơ Thể Học về nhà. Bỗng dưng hôm nay đôi mắt mở ra nhìn hắn. Tiếng bà mẹ léo nhéo ở nhà trước. Hắn nhắm nghiền hai mắt. Ánh sáng nhá nhem vẫn lẩn quẩn trong tầm nhìn của hắn. Hắn mở mắt ra thật vội. Không. Hai con mắt ấy vẫn nhắm. Hai con mắt ấy vẫn ngủ. Ông lão ăn mày ấy chết khô bên lề phố. Người ta đem xác ông vào trường Y Khoa. Ông già ấy đã nghỉ yên từ ngày thành vật thí nghiệm cho đám sinh viên trường thuốc. Sống có mái nhà, chết có nấm mồ. Thiên hạ vẫn ví von. Nhưng người này khi còn lê lết được, vẫn gửi thân trên vỉa hè cái thành phố đã chẳng còn tên, và lúc buông thõng hai tay, đã gửi xác trong phòng thực tập Cơ Thể Học. Ông già ơi. Ông hiến dâng thân thể cho khoa học. Chúng tôi, những người sống mang ơn bạn.
 
Mình sẽ tìm cho ông già một nơi chốn bình yên. Hắn xoay nhẹ nắp keo và xoay cái mặt người vào phía trong vách tường. Hắn cảm thấy như Người chết bắt tay hắn. Cái bắt tay ấm áp, dù bàn tay ngâm trong formol đã gần cả năm trời. Bỗng dưng người hắn nổi gai. Bao nhiêu năm trời ăn nằm bên xác chết, vậy mà hôm nay người hắn nổi gai.
 
Con ra tới đây mẹ à. Làm gì mà rối lên thế. Hắn vểnh cổ, nói vọng ra ngoài.
 
2
 
Chị ngồi nhặt rau. Dạo này rau muống lên giá quá. Mà toàn rau già ăn dai như đỉa. Chị cố dung hòa giữa việc ngắt bỏ những cọng rau già và đừng bỏ phí đi nhiều quá. Đầu óc chị tẩn mẩn với những thứ cây, thứ lá, thứ củ, thứ hạt nào đó có thể nấu thành món ăn cho cả nhà. Cả tháng trời nay mẹ chị ốm đau. Những chén cháo loãng chẳng làm sao có thể giúp mẹ ngồi dậy mà đi tới đi lui như lúc chưa ngã bệnh. Cũng may. Hôm mẹ mổ ruột dư chị còn chiếc nhẫn đính hôn. Bây giờ thì mười ngón tay trống trơn. Mai mốt anh về chắc anh sẽ ngạc nhiên khi nhìn ngón tay đeo nhẫn không có nhẫn của chị. Nhưng giải thích thì chắc anh sẽ hiểu. Mà biết rồi anh có về được không. Chị không nghĩ thêm nữa.
 
Thằng Ngôn về chưa hở Hạnh? Tiếng mẹ chị vọng ra từ nhà sau.
 
Chưa đâu mẹ ạ.
 
Hôm nay chắc nó được lĩnh gạo đấy nhỉ.
 
Vâng. Chắc hôm nay. Chị nói cho mẹ yên lòng.
 
Sinh viên học sinh, đáng lẽ phải cho người ta lĩnh gạo sớm. Mẹ chị càu nhàu.
 
Chị trấn an mẹ. Chắc hôm nay có đấy mẹ ạ.
 
Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau mà. Mẹ chị nhắc lại câu trong một bài hát của cái thời xa lắc xa lơ. Dạo này mẹ vẫn lẩn thẩn như thế. Chị mỉm cười. Những lời trấn an vu vơ của con gái bao giờ cũng đem lại cho người mẹ sự bình yên. Nhà chỉ còn ba mẹ con. May mà thằng Ngôn còn cái chân sinh viên. Nếu không thì chắc là đói quá. Lạy trời cho chiều nay nó được lãnh gạo. Muộn cả tuần lễ rồi. Không có gạo thì lấy gì nấu cháo cho mẹ đây chứ.
 
Tiếng xe đạp cót két cắt ngang dòng suy tưởng của chị. Chị ngước lên, ngạc nhiên.
 
Kìa Tuân.
 
Chống chân xuống đất cho xe ngừng lại, người thanh niên cất tiếng chào. Chị Hạnh.
 
Ừ, em.
 
Thằng Ngôn có nhà không chị. Người thanh niên hỏi không kịp thở.
 
Nó đã về đâu. Chị nhìn những giọt mồ hôi đọng trên cánh mũi rám nắng thằng bạn em trai chị. Hình như hôm nay trực bệnh viện gì đấy mà.
 
Người thanh niên sựng lại. Ô, vậy à.
 
Có chút gì đó như sự thất vọng, xen lẫn chút mừng vui, chút hả hê trên khuôn mặt và trong giọng nói hắn. Hắn xăm xăm đẩy xe lên thềm dù chị chưa bảo hắn đem xe vào trong cho khỏi mất như vẫn thường nói.
 
Chị lùa tay vào thau nước rồi đứng vội lên, lính quýnh tránh chỗ cho người thanh niên đẩy xe vào nhà. Chị nhìn vẻ xớn xác của hắn. Hai mắt hắn ngó trước ngó sau. Hàng ngày Tuân và một thằng bạn nữa vẫn đến rủ Ngôn xuống phố. Trong ngôn ngữ của tụi nó xuống phố có thể là đi uống cà phê, đi xem phim, đi xuống bệnh viện hay la cà đâu đó ngắm nghía những cô gái Sài Gòn còn sót lại chút dấu vết của Sài Gòn.
 
Mắt chị dừng lại ở cái bao tải nhỏ cài ở yên xe hắn. Vậy là thằng này được lãnh gạo sớm hơn thằng em của chị. Tuân vẫn thường được lãnh gạo sớm hơn hai đứa kia như thế. Có lần chị thắc mắc và được chúng nó giải thích là Tuân ở lại trường làm nhân viên giảng huấn nên được ưu tiên hơn những đứa khác.
 
Em được lãnh gạo rồi à. Chị hỏi.
 
Tuân ngơ ngác một giây rồi nhìn mông ra ngõ. Ngõ cụt nên ít người qua lại. Hai đứa trẻ tóc vàng cháy và rối bù chơi nhảy lò cò trên sân đất, cãi nhau ỏm tỏi vì đứa này tố cáo đứa kia ăn gian.
 
Hở Tuân. Chị lại hỏi.
 
Hắn ậm ừ. Rồi lảng qua chuyện khác, Thằng Ngôn có nhà không, chị.
 
Chị nhìn hắn. Cái thằng lẩn thẩn. Mới hỏi xong đã lại hỏi y hệt câu ấy. Dạo này người ta bị lẩn thẩn hơi nhiều. Chị thầm nghĩ.
 
Đột nhiên Tuân đưa tay xem đồng hồ, rồi nhanh nhẹn tháo cái bao tải ở yên xe. Hắn nhấc cái bao lên, xách vào tận khoảng giữa căn nhà, len giữa những chiếc ghế lỏng chỏng kê quanh chiếc bàn gỗ trầy trụa những vẩy véc ni nâu thẫm.
 
Chị cho em gửi cái này cho thằng Ngôn. Em có việc phải đi bây giờ.
 
Chị nghĩ đến những hạt gạo trắng chen chúc với những hạt thóc và sỏi sạn mầu nâu hoặc mầu ngà. Mất công nhặt thóc, nhặt sạn một tí nhưng rồi sẽ là những bữa cơm ngon. Mẹ sẽ có những bữa cháo đặc ăn với muối thật là đặm đà.
 
Để chị nói với nó cho.
 
Chị không dám hỏi thêm điều gì. Thằng này chắc trúng mánh nên muốn nhường phần gạo cho bạn bè. Chị sợ nó đổi ý. Dạo này con người xoay như chong chóng. May mà thằng em chị có những đứa bạn tốt. Trên đời này chơi được với những đứa bạn tốt như chúng nó thật là khó khăn. Những ý nghĩ đuổi bắt nhau xớn xác trong đầu chị.
 
Không sao, nó biết mà chị.
 
Tuân trấn an chị rồi dắt xe đạp ra sân, phóng lên xe, đạp đi như tên trộm xổng khỏi tay cảnh sát. Vụt một cách chị đã không thấy tăm tích hắn nữa.
 
Chị nhanh nhẹn bước tới góc nhà. Hơi thở chị đổ dồn con dốc. Chị ngồi xuống vỗ nhẹ vào cái bao tải. Cái bao cứng ngắc. Cái này cũng phải chục ký gạo chứ không ít. Chị loay hoay tháo sợi dây buộc miệng túi. Tháng này vậy là trúng mánh. Hai chục ký gạo thằng Ngôn lãnh ở trường cộng thêm bọc gạo này, tha hồ mà ăn uống no say, tha hồ mà vỗ nhau cho béo. Chị nhắm mắt lại hình dung những chén cơm nghi ngút khói, trong khi những ngón tay vẫn mau mắn tháo gỡ sợi dây. Những chén cơm trắng thơm nồng trong không gian chị. Thằng này làm gì mà buộc kỹ thế không biết. Nồi cháo trắng sôi lụp bụp trên bếp củi. Những mối dây cứ rối vào nhau. Củi nỏ, than nổ lách tách văng ra những vẩy lân tinh vàng rực. Cuối cùng rồi sợi dây cũng phải tuột ra. Mắt vẫn nhắm nghiền với ước mơ, chị luồn tay vào bọc gạo ân tình.
 
Những ngón tay chị chạm vào vật gì đó ẩm và lạnh. Chẳng lẽ nhà trường bán gạo hẩm cho sinh viên. Chị luồn những ngón tay xuống dưới bọc. Những thứ gì đó gồ ghề vừa mềm vừa cứng vừa nhão vừa khô làm người chị sần sùi gai ốc. Chị thành con cóc cụ. Chị khẽ lắc đầu để xô đi cái cảm giác khó chịu, rồi tuột hẳn lớp vải bao tải xuống. Những chén cơm trắng bốc khói tỏa ra một thứ mùi gì đó gây gây tanh tanh và nồng như mùi thuốc sát trùng chị bắt gặp khi săn sóc mẹ trong nhà thương tuần trước. Những chén cơm trắng mờ đi. Và chị mở choàng mắt. Chị hét lên kinh hoàng. Hai con mắt nhắm nghiền đang nằm ngay trước mặt chị. Hai con mắt trên chiếc đầu teo tóp, với khóe miệng méo xệch và sống mũi xiên xẹo như mũi con búp bê cao su bị móp. Thân thể chị mềm nhũn.
 
Lạy Chúa tôi. Chị thở hắt ra.
 
Và chị đổ rục xuống nền nhà như thân cây chuối bị đốn ngang.
 
3
 
Tao đã nói rồi. Mày phải đi với tao. Ngôn nói bằng giọng quả quyết.
 
Phải biết là đi đâu đã chứ.
 
Đi đâu thì mày cũng phải đi với tao.
 
Chúng tôi ngồi trong quán cà phê cô Thảo. Hai ngày nay chúng tôi nghĩ nát óc tìm một giải pháp cho vấn đề chúng tôi đang rối trí đương đầu. Giải pháp nào nhân đạo cho người ấy và an toàn cho chúng tôi. Cả chục ly cà phê thơm mùi gạo rang cháy. Hàng chục điếu thuốc mỗi lần hút lại tốn một que diêm để mồi. Những đầu ngón tay bắt đầu nhuộm vàng. Nếu mẹ tôi trông thấy mẹ tôi sẽ lo lắng. Nếu cô bạn bắt gặp, cô bạn sẽ không vui. Cái loa phóng thanh ở đầu con hẻm cứ rối lên suốt ngày Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn. Vậy mà cả hai đứa con trai - vốn thầm tự cho mình là thông minh - vẫn không tìm ra được giải pháp nào.
 
Tao áy náy quá. Ngôn lẩm bẩm.
 
Tôi ngoái cổ nhìn quanh – thói quen mới tập được. Cẩn thận vẫn hơn. Có mất mát gì đâu cái ngoái cổ - rồi quay lại, nhìn thẳng vào mặt bạn, nói thật nhỏ, vừa đủ cho hắn nghe. Áy náy gì nữa, mình đã đem vào nhà thờ rồi.
 
Đem đâu mà đem. Mới chạy xe vù qua cổng nhà thờ, có kịp đọc câu kinh nào đâu.
 
Những kẻ ngoan đạo quá nhiều khi cũng là trở ngại cho sự tiến bộ. Ai đó đã nói câu ấy nhỉ. Buổi tối hôm trước, chúng tôi đem bọc gạo mà thằng Tuân gửi chị Hạnh, nhờ Ngôn giải quyết giùm, định ghé nhà thờ, đọc cho Người ta một câu kinh rồi tính tiếp. Trước khi lên đường đến xứ đạo, cả hai đứa cùng hăng hái và nhiệt tâm như hai chàng hiệp sĩ lao mình vào cuộc thập tự chinh đầy gian khổ. Vậy mà đến trước cổng nhà thờ, chẳng ai bảo ai, cả hai cùng đảo xe qua hướng khác.
 
Tại tao thấy có nhiều đứa lảng vảng ở ngoài cổng nhà thờ quá. Tôi gạt tàn thuốc xuống đất, nói nhỏ.
 
Thì giáo dân đi nhà thờ cầu kinh. Ngôn lầu bầu.
 
Tôi nhìn Ngôn ngờ vực. Những khuôn mặt phẳng lì bia đá ấy không thể là chân dung của bầy chiên ngoan đạo. Nhưng tôi không cãi cọ với Ngôn. Từ lâu, tôi có thói quen bỏ ngoài tai những điều gây tranh luận.
 
Thằng khốn Tuân hên thật. Ngôn nheo mắt, nhìn chất nước đen nâu trong lòng ly, nói như nói cho một mình nó nghe. Giờ này chắc tới hải phận quốc tế rồi.
 
Tôi cũng lẩm bẩm, như cho một mình tôi nghe thôi. Những thứ còn lại kia không biết nó đem đi đâu. Đem lại trường thì đâu có kịp.
 
Những thứ còn lại kia. Những bàn tay với đủ thứ lặt vặt như xương ngón, xương thuyền, xương nguyệt, xương đậu, xương thang... nọ kia. Những bàn chân với xương bàn chân, xương ngón chân, xương gót... lung tung đủ thứ. Rồi những xương đùi, xương ống chân, xương bánh chè, xương cánh tay, xương ức, xương sườn, xương sống, xương hông, xương bả vai, xương đòn gánh, xương hàm. Những thứ còn lại kia. Nhà khoa học dở điên dở khùng. Tên bác sĩ chuyên khoa Cơ Thể Học. Mơ ước thực hiện viện bảo tàng cơ thể học của riêng mình. Mỗi khi sinh viên thực tập mổ xong một xác chết, trước khi nhân viên nhà xác đem đi thiêu, nhà khoa học lén tháo, gỡ, cắt, lóc… đem mấy cái xương về nhà. Bộ sưu tập chỉ còn thiếu cái xương sọ. Nếu như không có chuyến đi bất ngờ này thì bộ sưu tập đã kể như hoàn tất.
 
4
 
Chúng tôi nghĩ ra chỗ ấy thật tình cờ. Lúc chiếc máy phát thanh quán cà phê cô Thảo-Tóc-Dài vang vang lời ca có đoạn Ở tận sông Hồng anh có nhớ, quê hương em cũng có giòng sông, Vàm Cỏ Đông gì gì đó thì hình ảnh chỗ ấy chợt sáng lên trong đầu hai đứa.
 
Ấy là khúc sông vắng chảy qua lưng khu di cư chen chúc những nhà thờ Công Giáo. Đêm xuống bên này sông lập lòe ánh nến những bàn thờ xóm đạo, bên kia sông le lói ánh đèn ẩn hiện trong những tàng cây rậm lá. Hình như ấy là sông Bến Cát. Hồi Mậu Thân, máy bay ném bom lung tung phía bên kia sông. Loáng thoáng những bóng khăn rằn chạy lăng quăng dưới những khóm dừa. Hồi còn bé và ngay cả khi đã lớn và đất nước không còn chiến tranh, chúng tôi cũng không bao giờ dám mạo hiểm qua bên kia sông. Nhưng tôi thích ngồi ở bờ bên này nhìn những thân dừa ngả nghiêng bờ bên kia.
 
Gần, thật gần mà cũng xa quá là xa.
 
Hai thằng con trai. Thì chúng tôi nào đã đủ để trưởng thành được coi là hai gã đàn ông. Hai thằng con trai chọn đêm hôm ấy bởi đêm hôm ấy không trăng. Chúng tôi lầm lũi đạp xe qua những con phố vàng vọt ánh đèn. Trái tim động cỡn trong lồng ngực. Những vì sao nhấp nháy trên cái nền đen kịt của đêm như tín hiệu cầu cứu của đám vượt biên giạt vào hoang đảo. Gió sông luồn qua cổ áo làm gai lạnh sống lưng. Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Tôi thầm hát lời thánh ca quen thuộc để sóng gió dịu xuống trong lòng. Chúng tôi cong lưng đạp xe lên dốc cầu. Ông Già ơi, hãy nghỉ yên nhé. Hãy nghỉ yên. Chúng cháu không thể làm gì khác. Chúng cháu không còn cách nào khác.
 
Hai đứa dừng xe, dựa sát thành cầu. Hãy thong thả đi bên nhau. Dặn dò như thế. Như một đôi tình nhân. Từ xa nhìn lại, người ta sẽ tưởng đó là cặp tình nhân dẫn nhau lên cầu tính chuyện ầu ơ. Gió vi vu. Mặt sông cau có giận hờn. Những ngọn đèn mù lòa hai bên bờ. Con sông có tên không. Hình như tên nó là Bến Cát. Chẳng biết có phải là Bến Cát không. Hai bên bờ chả thấy nơi nào có cát. Mình sắp thủy táng cho Ông lão ăn mày. Cái bọc nặng trĩu trên cánh tay. Nhìn quanh xem có ai để ý mình không. Nhập nhòe đàng kia có một cặp tình nhân. Phải là tình nhân bởi họ đang ghì sát vào nhau. Không ai để ý đâu. Sao mà nặng thế nhỉ. Thằng khốn nạn Tuân. Làm khổ người ta. Giờ này chắc nó đang ở Mã Lai hay Nam Dương rồi. Nhà bác học điên điên khùng khùng. Chẳng bao lâu nó sẽ định cư ở một xứ sở xa xôi nào đó, nơi con người được hít thở hồn nhiên.
 
Xin lỗi, xin lỗi. Tôi miết những ngón tay vào chỗ xi măng vỡ tạo thành vết lõm ở thành cầu, miệng thì thầm cầu khấn. Và vung mạnh cánh tay trĩu nặng. Sức nặng buông ra làm tôi lao đao muốn ngã.  
 
Một tiếng ùm vang lên. Mặt nước đen cau lại, giận dữ.
 
Thôi về. Chúng tôi ngó trước nhìn sau. Không ai thấy chúng tôi. Đôi tình nhân thong thả đạp xe, lên cầu hóng gió. Hãy an nghỉ nhé, Ông Già ạ. Tôi thì thầm với cái đầu của người đã chết. Tôi thì thầm với gió, với những vì sao le lói trên tấm màn nhung đen, tôi thì thầm với cả dòng sông. Đêm nay chúng tôi trao Ông Già cho dòng sông giữ hộ.
 
Lễ thủy táng âm thầm.
 
5
 
Cho tôi lại sông Bến Cát.
 
Bến Cát hay là Bến Hải.
 
Bến Cát.
 
Chú có chắc là Bến Cát không.
 
Hình như vậy. Hồi trước ở khúc này có một con sông nhỏ, tên là sông Bến Cát.
 
Chú nhớ nhầm đó. Làm gì có sông Bến Cát. Sông Bến Hải thì có. Đọc trong sách sử có thấy nói tới nhưng sông Bến Cát của chú thì cháu chưa bao giờ nghe ai nhắc tới.
 
Con đường kéo lên đoạn dốc, tiếng máy xe rầu rĩ. Người đàn ông nhận ra cây cầu. Nhưng phía dưới không phải là lòng sông loang loáng nước.
 
Dừng lại đây một chút được không.
 
Được chứ.
 
Người đàn ông xuống xe. Những mái nhà cao thấp ngả nghiêng trong gió. Nắng bốc lửa trên da. Người đàn ông miết tay lên thành cầu. Chỗ xi măng vỡ này. Hai mươi mấy năm trời rồi nhưng còn quen quá là quen. Những mái nhà chen chúc nhau. Ngói đỏ đủ mọi sắc mầu. Có cả những mái nhà mầu tím. Những dinh thự. Và bao nhiêu là mái tôn vênh vẹo. Những mái nhà cố vươn lên tìm khoảng không gian trống trải để hít thở chút không khí ngột ngạt. Mặt trời xoay vòng trên cao. Người tài xế trẻ cặp xe sát lề đường, bước xuống bên người đàn ông. Người đàn ông gật gù. Những sợi tóc bạc rũ xuống vừng trán ông ta.
 
Đây là cây cầu. Ở dưới kia lúc trước là con sông. Tôi nhớ như vậy.
 
Cháu chẳng biết đâu. Nếu là sông thì người ta đã lấp đi để có chỗ xây nhà. Chú không thấy nhà cửa san sát đó sao.
 
Người đàn ông ngóng cổ nhìn xuống phía dưới chân cầu. Một con hẻm nhỏ vừa đủ chỗ cho một chiếc xe gắn máy chạy lọt. Tiếng rao hàng ơi ới. Người đàn ông cố lắng nghe tên món hàng nhưng không thể nào đoán ra được. Mái nhà ngói nâu chìa ra khỏi lề con hẻm, tưởng chừng đứng trên này, đưa tay ra, nhoài người tới, ông có thể chạm vào những viên ngói khô bốc khói trong cái nóng nung người.
 
Dưới này ngày xưa là con sông Bến Cát mà tôi nói đó.
 
Cháu không biết sông Bến Cát. Nhưng chú có chắc chắn không.
 
Người đàn ông nhắm hai mắt lại. Hình ảnh cái đêm lén lút với thằng bạn đem cái đầu người chết ném xuống sông hiện rõ ra trong trí. Mặt nước đen mun cau lại trước mặt ông. Một tiếng ùm xé toang đêm tối. Cái người thủy táng năm xưa giờ vùi dập nơi nào.
 
Thôi mình về chú ơi. Chẳng có sông Bến Cát Bến Đất gì đâu.
 
Ừ mình về thôi. Người đàn ông lẩm bẩm với cái đầu xanh xám, nhơn nhớt formol, với hai con mắt nhắm nghiền trong trí nhớ. Cái người được thủy táng năm xưa đã tan theo dòng sông vắn số mất rồi.
Trong tập “Và Không Ngày Nào Tôi Thấy Hình Tôi.”
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.