Hôm nay,  

Chuyện Chẳng Ngờ

15/06/202116:23:00(Xem: 6035)

 

Tại một quán cà-phê khá thanh lịch nằm ngay bên cạnh Bưu Điện Sài Gòn người ta thấy hai người đàn bà đang ngồi nói chuyện với nhau. Người thứ nhất tên Nga – một cô gái khoảng hai mươi ba tuổi, mặt mũi xinh xắn có dáng tự tin yêu đời của một người con gái có chồng, được chồng cưng chiều, hạnh phúc. Người thứ hai tên Nguyệt – một người đàn bà khoảng ba mươi lăm tuổi, kinh nghiệm, lịch lãm. Bà ta thuộc mẫu người biết hưởng thụ những gì đang có nhưng cũng sẵn sàng ứng phó với mọi bất trắc của cuộc đời. Nói tóm lại bà ta thuộc típ người bản lãnh. Họ vừa là đồng nghiệp vừa là đôi bạn tri kỷ cho nên câu chuyện thật thân tình, cởi mở. Người đàn bà trẻ lơ đãng nhìn ra đường, lấy chiếc thìa gõ nhẹ vào ly nước cam vắt vừa nói:

- Anh ấy yêu em hết mực, cái gì ảnh cũng chiều em cả.

Khẽ nhướng lông mày, Nguyệt – người đàn bà lớn tuổi nói với giọng bâng quơ:

- Thì mới lấy nhau mà. Ba năm còn mới lắm. Thời kỳ “rodage”, thời kỳ “hồng” mà em.

Nga không chú ý lắm đến lời bình phẩm của Nguyệt, nàng mơ màng nói tiếp:

- Ảnh nói em là người yêu lý tưởng, là người trong mộng của ảnh. Ảnh nói từ ngày lấy em tới giờ ảnh muốn đâm mù cả hai mắt để không còn nhìn thấy người đàn bà nào khác trên cõi đời này nữa.

Lúc này thì Nguyệt cười, tiếng cười giòn tan, nàng nói:

- Em tôi ngây thơ như cô “công chúa ngủ trong rừng” vậy đó.

Nga phản ứng nhưng rất nhẹ nhàng:

- Thật mà chị !

Nghe trả lời thế Nguyệt cầm tay Nga, lắc nhẹ, nói:

 - Em ơi đàn ông nó là sản phẩm của ông Trời sinh ra để tán tỉnh đàn bà. Gặp người đàn bà nào nó cũng nói như vậy đó.

     Dường như Nga đã đưa chiếc xe của mình vào “xa lộ tình yêu” cho nên tình cảm vẫn không giảm tốc độ.

- Anh ấy chung tình lắm chị ạ. Em dám cá bây giờ cho một cô gái thật đẹp sống chung trong nhà thì anh ấy vẫn chỉ biết có em thôi.

- Thế em đã thử chưa ?

- Cần gì phải thử chị !

Lần này thì Nguyệt nghiêm trang nói:

- Không thử sao biết người ta thật chung tình với mình ?

   Dường như hơi bị đuối lý nhưng Nga vẫn chống chế:

- Thử thì cũng được nhưng ngộ nhỡ ?

- Ngộ nhỡ tức là người ta đâu thực sự chung tình với mình, có phải vậy không ?

- Nhưng làm thế nào để thử ?

- Cái đó dễ lắm. Chị cũng đã  thử ông xã chị. Cách đó dịu dàng nhưng hữu hiệu lắm.  

Nói xong Nguyệt lấy hai tay chụm lại, nói nhỏ vào tai Nga. Không hiểu Nguyệt nói gì mà chỉ thấy Nga khúc khích cười, nói:

- Kế ấy hay thật! Chị đúng là bậc thầy. Em phục chị sát đất!

Thấy Nga đã theo đúng kế hoạch, Nguyệt nói như thúc giục:

- Thế bây giờ anh ấy đang làm gì ? Có thể thử ngay bây giờ được không?

Khẽ chớp mắt Nga nói:

- Giờ này ảnh đang ở nhà, ảnh nghỉ phép.

- Trời ơi, đúng là dịp may bằng vàng! Vợ đi làm, chồng ở nhà nghỉ tà tà chính là lúc tâm hồn mấy chả lâng lâng tìm về quá khứ, ôn lại tình cảm xưa cũ. Đây chính là thời gian tốt nhất để thử thách đó em.

- Được rồi em sẽ làm ngay.

            Nói xong Nga đi tới quầy điện thoại, bỏ tiền rồi quay số. Nàng rút ở trong ví ra một chiếc khăn mùi-soa, cẩn thận bọc quanh chiếc ống nói. Còn Nguyệt thì đứng bên cạnh đưa mắt nhìn như thể cô giáo theo dõi học sinh làm bài thi. Khi nghe tiếng chuông reo và biết chắc chồng mình đã nhắc máy điện thoại, Nga tằng hắng, sửa giọng để chồng không nhận ra giọng nói của mình, rồi run run nói:

- Allô, có phải anh Tùng đó không ?

- Vâng, tôi Tùng đây. Xin lỗi ai đầu dây vậy ?

- Em đây. Em là Mộng Điệp. Anh không nhận ra em à ?

- Không. Nhưng Mộng Điệp nào vậy ?

- Trời ơi anh tệ bạc quá (giọng nghen ngào) ! Mộng Điệp là cô thư ký của anh lúc anh còn là phó trưởng ty ở Nha Trang đó. Anh không nhớ em sao ?

- Trời ơi Mộng Điệp ! Nhưng làm thế nào em có số điện thoại của anh ?

- Sau khi được bổ về Gia Định làm trưởng ty anh hứa ra Nha Trang cưới em. Anh gặp mấy cô gái đẹp ở Sài Gòn anh quên em (khóc vì uất ức) ! Em tìm anh như thể tìm chim. Em đến Bộ để hỏi thăm tin tức về anh.

- Em tha lỗi cho anh. Âu cũng tại duyên số. Lúc đó Sài Gòn giới nghiêm, đường xá xa xôi cách trở. Tuy lấy bà ấy nhưng anh....

- Nhưng làm sao? (tí nữa thì Nga thét vào máy “ Đồ thằng cha cà chớn!” nhưng may mà ngưng lại được)

- Vẫn nhớ em!

- Trời ơi ! (Nga muốn quật chiếc máy điện thoại xuống đất nhưng Nguyệt đứng bên cạnh lấy tay chỉ vào miệng ý nói cứ bình tĩnh )

-  Anh có biết bao năm nay em đau khổ vì anh không ?

- Anh xin lỗi Mộng Điệp mà ....

- Thế bây giờ em muốn gặp anh ít phút có được không ?

- Cái đó thì ... (giọng ngập ngừng)

- Em xin anh một ân huệ cuối cùng. Gặp nhau ít phút rồi em sẽ vĩnh viễn ra đi để trả lại hạnh phúc cho anh với.... người ta.... (khóc tấm tức)

- Gặp thì cũng được (giọng e ngại) nhưng không biết bà ấy có ghen không ? (Nghe nói tới đây thì Nga muốn hét to vào máy “Ghen hả! Tôi cắt cổ ông chứ ghen hả? Thằng cha cà chớn! “)

- Thôi được rồi. Anh cũng liều một chuyến. Thế gặp em ở đâu bây giờ ?

- Em đang đúng ở Bưu Điện Sài Gòn để gọi điện thoại cho anh. Trước cửa bưu điện có một sạp báo. Anh tới sạp báo, giả bộ nhặt một tờ lên coi. Em trong này nhận ra anh là em chạy ra gặp anh ngay.

- Thôi được rồi. Mười lăm phút nữa anh sẽ có mặt ở đó.

-  Đừng bỏ em một mình nghe anh ! (giọng não nề)

            Nói xong Nga gác máy điện thoại, quay qua nhìn Nguyệt. Dù Nga không nói gì nhưng Nguyệt đã hiểu rõ nội dung câu chuyện. Hai người nấp sau cánh cửa kính, hồi hộp nhìn ra ngoài. Khoảng mười lăm phút sau một chiếc xe Lambretta chờ tới. Người lái xe không ai khác hơn là Tùng. Chàng ta xuống xe rồi dựng xe ở bờ lề.  Nhìn thấy chồng, Nga mở trừng trừng đôi mắt. Và khi Tùng  tiến tới xạp báo, đưa tay nhặt lên một tờ thì Nga té xỉu vào cánh tay của Nguyệt.

            Ba ngày sau Nga đi làm trở lại, phấn son lợt lạt, đôi mắt quầng thâm, mặt mày trầy sướt – dấu tích của những trận vật vã, chén bay đĩa bay với chồng trong mấy ngày qua. Gặp Nguyệt, Nga không thèm chào hỏi, mặt lầm lầm lì lì, nói:

- Em xin nghỉ phép mười ngày, đưa sấp nhỏ về bên ngoại cho thằng chả ngủ một mình cho biết thân!

 

Lời người kể chuyện: Thử thách theo cái kiểu này thì ông chồng nào không chết thì cũng bị thương.

 

 Đào Văn Bình

(trích tuyển tập truyện ngắn Mê Cung, Ananda Viet Foundation, Amazon phát hành)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.