Hôm nay,  

Thế gian thường tình

25/06/202100:01:00(Xem: 4006)


Anh đậu xe trước chung cư, đèn khẩn cấp nhấp nháy đều đặn. Năm phút rưỡi chờ đợi. Những người qua lại nhìn anh. Những cái nhìn tọc mạch, xét nét. Bốn giờ ba mươi sáu phút, bóng em lấp ló ngoài khung cửa. Mắt em dừng lại ở xe anh. Trời lạnh. Em mặc áo da trông ấm cúng lạ thường. Nhưng anh không cảm thấy thèm được ôm chầm lấy em để hơi ấm hai thân thể hòa lẫn trong nhau như thuở trước. Em thong thả bước xuống những bậc thang xi măng ẩm ướt. Một chiếc xe van dừng lại phía sau anh. Những đầu tóc mầu đen rối bù ló ra khung cửa. Rồi những bàn chân da vàng khẳng khiu bước xuống xe, tất tả. Tiếng cười đùa, gọi nhau ơi ới vang cả một góc đường. Em luống cuống mở cửa xe. Em chào anh. Vẫn giọng nói thì thầm như hơi thở độ nào. Anh cố cười thật tươi đáp lại.

            “Anh chờ lâu không?”

            “Khoảng năm phút. Sao; khỏe không?”

            “Khỏe. Còn anh. Hình như anh bị cảm phải không? Em nghe giọng nói của anh khàn khàn...”

            “Ừ, anh bị cảm mấy bữa trước...”

            Vẫn những mẩu đối thoại rời rạc.

            “Em thích đi đâu?”

            “Em hở,” Em cười. “Tài xế chở đi đâu thì đi theo đấy.” Rồi em vội sửa, “Ấy chết, em lỡ miệng. Xin lỗi, em không có ý coi anh như tài xế.”

            Anh khoan dung như đức Khổng Tử, “Có gì đâu! Có phải ai muốn làm tài xế cũng được cả đâu.” Liếc nhìn chiếc xe van trong kính chiếu hậu, anh đổi đề tài, “Mấy người Việt Nam này chắc đi bắt trùn...”

            “Không phải đâu. Họ đi hái trái táo đấy.”

            “Vậy sao?”

            “Bữa trước em cũng đi thử.”

            “Còn đau lưng không?” Anh chọc.

            “Mỏi lắm. Bây giờ thì hết rồi.”

Một chiếc lá vàng rụng xuống, đậu lại trên kính xe. Anh sang số cho xe chạy vút tới. Chiếc lá bay cuốn ra phía sau. Chiếc lá làm anh nhớ tới truyện Chiếc Lá Cuối Cùng của O'Henry. Biết bao giờ anh mới viết được một tuyệt tác như bức tranh cuối cùng của người họa sĩ già nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng nhân ái trong truyện!

            “Đi thư viện không?” Anh hỏi, lúc mình nhập chung với dòng xe cộ ngược xuôi của giờ tan sở.

            “Em quên mang thẻ thư viện rồi.” Anh cũng không mang thẻ theo. Thường thì lúc nào anh cũng để thẻ thư viện trong xe. Hôm qua đi mượn mấy cuốn sách về đọc, bỏ quên thẻ trong túi áo.

            “Hay là đi vòng vòng một lúc, rồi ghé chỗ nào đó uống cà phê, nghe.” Anh nhỏ nhẹ, như đang dỗ dành đứa em gái hay hờn dỗi.

            “Dạ. Lâu lắm em không đi vòng vòng.”

            Anh nghĩ tới người con trai vẫn đưa đón em đi làm mỗi ngày. Nhưng anh không nói ra. Anh không còn muốn nói ra điều mình không muốn tin là có thật. Nhưng hình ảnh mơ hồ của người con trai cứ vướng trong trí tưởng như những sợi tơ nhện nhập nhằng, trong xó góc một căn nhà tăm tối.

            Anh chạy xe về hướng bắc thành phố. Lá đổ ngập hai bên đường. Những chiếc lá phong mầu đỏ gạch. Mùa thu lao xao đầu cành khẳng khiu, trơ trụi. Và gió đu đưa đầu những cánh tay xước lên nền trời trăm ngàn vết cào cong quẹo. Phố xá tụt lại phía sau. Anh hạ thấp cửa kính xe cho gió lùa vào. Không khí lạnh băng ôm choàng lấy hai người. Anh liếc nhìn em, thấy những sợi tóc bay chấp chới đổ dạt qua hai bên vai. Muốn đưa tay vuốt những sợi tóc mềm, nhưng anh ngại. Anh nghĩ tới người con trai vẫn đưa em đi làm mỗi sáng, vẫn đón em về nhà mỗi chiều. Chẳng biết người ta có đưa em đi vòng vòng như anh vẫn thường đưa em không.

Rồi anh nói bâng quơ, “Năm nay mùa đông đến sớm quá!”

“Mới mùa thu mà.”

            “Ừ thì mới mùa thu.”
            “Sao anh nói mùa đông?” Em bắt bẻ vu vơ.

            Anh nhấn ga cố qua cho kịp cái đèn vàng ở ngã tư, loay hoay với câu hỏi cứ ứ đầy trong lồng ngực. Mùa màng trong lòng anh khác với mùa màng của ngoại cảnh. Bên ngoài mới là mùa thu. Vài ba hôm nữa mới là ngày Hallow'een; một thứ tết nhi đồng của trẻ con Bắc Mỹ. Và còn gần hai tháng nữa mới chính thức là mùa đông. Nhưng tuyết đã đổ trong anh ngay từ mùa hạ; khi tình cờ nghe thiên hạ xì xầm về em và người con trai làm chung hãng.

            “Phải anh đang mơ không?” Em chợt hỏi.

            “Đâu có.”

            Anh trả lời quấy quá, rồi lại lặng thinh, vừa lái xe vừa lơ đãng nhìn hai bên đường phố. Nắng mạ vàng những ngọn cây vướng đầy lá úa. Nắng vạch những đường viền óng ả trên mái những ngôi chung cư nhiều tầng hai bên đường phố. Một vài cánh chim lẻ loi chao bay trên nền trời chiều se se lạnh. Ngừng xe ở ngã tư chờ đèn xanh, anh dõi mắt nhìn đăm đắm những ngọn cây phong co ro trong gió gắt.

            “Kể chuyện cho em nghe đi!” Em nhắc.

            Anh xoay qua nhìn em. “Kể chuyện gì bây giờ?”

            “Chuyện gì cũng được.” Em dễ dãi với khóe cười nửa miệng. Lâu lắm em mới lại dễ dãi như hôm nay. Đèn giao thông đổi mầu xanh. Một chiếc xe thể thao màu đỏ đậu ngược chiều, quẹo trái vút qua mặt xe mình. Anh không buồn bóp kèn để phản đối như thói quen. Ở bên em riết rồi anh sẽ hiền lành, dễ thương như một chú tiểu đang chập chững trên con đường tiến về cõi phúc với những sớm hôm miệt mài kinh kệ.

            “Lâu lắm mình mới lại gặp nhau...” Anh buông lơi câu nói, để dư âm còn lại vang động trong đáy sâu tâm tưởng, ném lại những vọng âm, nghe xa xăm như một nỗi buồn không nguồn cội.

            “Ừ, dễ chừng bốn tháng rồi cũng nên.” Em ngập ngừng như đang nhẩm tính.

            Anh quả quyết, “Ít nhất là sáu tháng.”

            “Thật không? Đâu có lâu dữ vậy.”

            “Thật đấy. Anh còn nhớ như in buổi hẹn cuối. Mình đi uống cà phê ở quán Hẹn.” Anh nhắc lại tên quán cà phê mình thường dẫn nhau lại, ngồi nhấm nháp những ngụm cà phê cho đến khi nguội tanh nguội ngắt.

            Những buổi sáng. Những buổi chiều. Những buổi tối. Bao nhiêu là hò hẹn.

Vậy mà có lúc phải quên nhau!

            “Không có gì kể cho em nghe sao?” Em lại hỏi. Anh buồn rầu nhìn chăm chú vào con đường trước mặt. Con đường sắp uốn cong ở cuối chiếc cầu bắc vòng qua xa lộ. Anh khẽ đạp thắng xe. Anh chẳng có chuyện gì để kể cho em nghe ngoài nỗi thắc mắc nặng trĩu trong lòng về người thanh niên - nghe nói - làm chung hãng với em. Chẳng biết anh ta có đưa em đi vòng vòng như anh vẫn thường đưa em đi như thế này không.

            “Anh vẫn đi làm thường?” Em khéo léo gợi ý, đẩy đưa cuộc đối thoại vốn đã rời rạc như cơm nguội.

            “Ừ, vẫn thường. Chẳng có gì đáng nói. Chỉ thấy mệt.”

            “Chỗ em làm còn mệt hơn nhiều.”

            Anh lặng thinh, lắng nghe chuyện của em. Nhưng em cũng dừng lại ở đó. Tính em ít nói. Em giống hệt tính anh. (Mai mốt về sống với nhau, chắc lúc nào nhà mình cũng trầm lắng như nhà nguyện của một tu viện kín cổng cao tường. Nhưng mà nhắc làm gì nữa về những mơ ước không thành!) Chẳng biết người thanh niên ấy có ít nói giống em không. Mà ít nói quá cũng không tốt. Phải không, cô nhỏ.

            “Đây là đâu vậy?” Em hỏi khi xe mình đậu lại ở trước bảng ngừng, nhường quyền ưu tiên cho xe cộ ở con đường cắt ngang phía trước. Một cỗ xe ngựa ngập ngừng lăn bánh. Bốn bánh xe gỗ tròn phát ra những tiếng lọc cọc vui tai. Người xà ích già buông chùng dây cương. Phía sau là một người đàn bà choàng mảnh khăn đen lấp lửng che hờ mái tóc đã lấm tấm những sợi bạc. Bên cạnh người đàn bà là hai đứa bé, một gái, một trai. Cả hai đều đội chiếc mũ dạ rộng vành, che dấu mái tóc có những sợi vàng sậm, quăn tít. Khi chiếc xe ngựa lọc cọc đi qua phía trước, anh thấy rõ những vết nhăn xếp nếp trên da mặt người đàn ông. Những người dân di cư tới mảnh đất này hàng trăm năm về trước, vẫn giữ trọn vẹn sắc thái của dòng giống họ. Thế hệ này nằm xuống, thế hệ sau tiếp nối. Liên tục như ngày tháng tiếp nối nhau; như những mặt trời vẫn mọc lên mỗi ngày, sau đêm dài tăm tối.

            “Mình ra khỏi thành phố rồi phải không?”

            Câu hỏi của em làm anh choàng tỉnh. “Ừ, mình đang ở ngoại ô. Cũng không hẳn ngoại ô. Đây là thị trấn Trăm Năm; cái thị trấn gì mà nhỏ tí teo...”

            “Mấy người đó bao giờ cũng mặc đồ đen.” Em vừa nói vừa nhìn theo cỗ xe với ngựa và người sơn phết toàn một màu tối thẫm. Xe mình lại tiếp tục chạy băng băng trên con đường rải đá dăm. Mình đang ở miền quê.

            “Ơ, nhìn đàn bò kìa anh!”

            Tiếng reo mừng của em làm xao động cả không gian trong lòng xe. Em xớn xác nhìn đàn bò rải rác gặm cỏ trong khung đất vuông vức của một nông trại bên đường. Những con bò trắng lốm đốm những vết loang mầu đen trên da. Trời lạnh, đàn bò vẫn thong dong gặm cỏ úa. Anh cho xe chạy chậm lại để em có thì giờ gom góp niềm vui. Bỗng dưng anh thèm một nụ hôn. Một nụ hôn mỏng, mềm trên cánh môi dưới thoa son hồng vẫn thường trề ra sau câu nói. Nhưng anh chẳng ngừng xe, cũng chẳng gợi ý cho em về một chiếc hôn ngon như miếng cắn mềm trên miếng xoài chín hườm, ngọt lịm. Anh nghĩ đến người thanh niên làm chung hãng em. Khi không lại nghĩ tới kẻ vô hình, vắng mặt làm chi vậy nè!

            “Không có chuyện gì kể cho em nghe hết sao?” Em chợt nói. Anh luống cuống lục lọi trí nhớ, tìm vội một câu trả lời. Nhưng đầu óc anh trống rỗng. Có còn chăng là nỗi buồn kín đáo hoà lẫn với niềm vui hội ngộ.

            “Làm như anh có chuyện buồn?” Em hỏi dò cùng cái nhướng của cặp lông mày mỏng như hai đường kẻ bút chì. Anh xoay qua nhìn em, bắt gặp cánh môi dưới trề xuống như vừa mới buông ra một lời trách móc.

            “Buồn gì đâu. Mừng thì có.”

            “Thật không?”

            “Thật chứ. Năm sáu tháng trời mới gặp lại, sao lại buồn.” Anh cố viện dẫn những lý do cho một niềm vui ẩn khuất.

            “Không ngờ có lúc mình lại có thể xa nhau lâu đến thế, anh nhỉ?” Giọng em dịu dàng như giọng người con gái thủ thỉ với mẹ mình chuyện yêu đương thầm kín.

            Anh gật gù, “Nhất là khi mà từ chỗ anh sang bên em chỉ có vài cái ngã tư đèn xanh đèn đỏ. Nhiều khi chẳng cần lặn lội đường xá làm gì. Chỉ cần nhắc điện thoại lên. Thiệt tình!”

            “Ya, thiệt tình!” Em cười hùa theo anh, rồi bỗng dưng em hỏi ngang, “Sao không gọi cho em?”

            “Tại... tại...”

            “Quên số điện thoại của em rồi chứ gì?”

            Anh đọc vanh vách bảy con số trong hàng số điện thoại nhà em. Những con số in trong trí nhớ đặm hơn cả ngày tháng năm sinh của chính anh.

            “Vậy sao không gọi cho em?” Em bắt bẻ.

            “Tại... Còn em, sao không gọi cho anh?”

            “Em gọi anh mấy lần không gặp.”

            “Nhắn lại.”

            “Thôi! Ngại thấy mồ!”

            Phía trước mịt mù sương chiều. Con đường trước mặt mỏng teo lại như sợi chỉ mất hút ở chân trời.

            “Nếu mình cứ đi hoài thì tới đâu nhỉ?” Em hỏi vu vơ. Anh nhẩm tính phương hướng trong đầu, rồi phỏng đoán, “Tới Bắc Cực.”

            “Bắc Cực thật không?”

            “Thật chứ.”

            “Ghê!”

            “Dám đi lên đó không? Làm dân Eskimo, đi săn hải cẩu, ngủ trong nhà igloo làm bằng nước đá.”

            “Sợ anh chịu không nổi.” Em lên giọng chọc ghẹo. Anh cười lặng lẽ. Anh tính nói với em rằng lạnh cỡ nào anh cũng không ngán nếu như có em ở bên cạnh. Nhưng hình ảnh người thanh niên làm chung hãng với em cứ chập chờn trong trí nhớ (dù anh chưa gặp anh ta bao giờ), làm đầu lưỡi anh cứng lại ngay khi sắp sửa nói ra một ước mơ có thật. Và khi không anh chẳng còn lòng dạ nào để nói những chuyện vu vơ như mình vẫn thường nói một cách say mê mỗi khi hò hẹn nữa. Anh cũng chẳng còn cái hào hứng chạy xe vòng vòng phố xá với em chút nào.

            “Trở về thành phố nghe.” Anh đề nghị. Em gật đầu, sau một thoáng nghĩ ngợi. Mình vòng đầu xe lại. Trở về phía nam. Buổi chiều đã nghỉ yên trên những chân rạ vàng nhạt trải đầy cánh đồng thênh thang hai bên đường. Nắng thoi thóp chân mây; nắng sơn phết những đường nét rối rắm ở chân trời pha trộn những hỗn hợp màu nhạt nhòa, tăm tối.


            “Lâu nay em có chuyện gì vui không?”

            “Chuyện vui?”

            “Ừ, chuyện vui.” Anh thoáng thấy đôi mi em chớp vội. Vậy là điều dự đoán của anh dựa theo những tin tức đồn thổi đúng lắm rồi. Nghe nói tới chuyện vui, nỗi xôn xao rộn ràng cõi lòng em hăm hở, và nỗi xôn xao ấy oà ra thành niềm vui lấp lánh đôi mắt ướt, làm chấp chới cánh mi có những sợi lông mi cong cong.

            Em trả lời, nhỏ nhẹ, “Cũng chẳng lấy gì làm vui...”

            Vậy mà còn chẳng vui. Có người yêu mà không vui. Thiên hạ bảo với anh như thế; thiên hạ thấy cô ấy đi chơi với người yêu mỗi ngày. Vậy mà gần hai năm nay anh vẫn ròng rã đón đưa, mê muội hẹn hò, lao đao đuổi bắt.

            “Còn anh?” Em hỏi bằng thứ vọng âm vô nhiễm.

            “Cũng thường.”

            Khi mình về tới trung tâm thành phố thì nỗi buồn cũng chín nẫu gan ruột anh. Những ngọn đèn đường vàng óng ả sau lớp sương mù dày, như những con mắt ốc sên mò mẫm trong đêm tối. Tòa thị chính của thành phố rực rỡ ánh đèn. Thành phố mới bầu thị trưởng mới. Thành phố đang cố gắng trang điểm lại, như cô gái đã một lần dang dở, cố phết chút son lên đôi môi đã bắt đầu có những vết nứt của thời gian.

            “Nhớ chỗ đó không?” Anh chỉ cho em coi cái khuôn viên vuông vức của khoảng sân, nơi tổ chức buổi Lễ Hội Tháng Mười năm ngoái. Góc cầu thang xoắn ốc, nơi anh suồng sã vùi những nụ hôn lên miếng ngực mềm ấm ngọt. Nơi em nói sẽ không bao giờ gặp anh nữa. Nhưng rồi cũng qua. Ngày lễ Oktoberfest dạt về quá khứ. Những nụ hôn liều lĩnh ngủ quên trong ký ức. Nhưng lửa thì vẫn bừng cháy ở chót lưỡi, đầu môi.

            Xe qua khỏi toà thị chính một lúc lâu, vẫn không nghe em nói gì về điều anh gợi nhớ. Khoảng tối phía dưới chân cầu thang xoắn ốc. Đêm dạ hội tưng bừng múa hát. Mùi rượu bia nặc nồng. Những miếng xúc xích nướng trên lửa lò gas thơm phức. Có biết bao nhiêu là người, nhưng cái xó tối dưới chân cầu thang thì chỉ có hai đứa mình. Rồi còn biết bao nhiêu nụ hôn, rải rác khắp phố xá, những góc đường ám tối, những quãng vắng công viên, những bãi đậu xe thưa người, những lồng thang máy bít bùng.

            Vậy mà rồi cũng phải xa nhau!

            “Đi uống cà phê nghe!” Anh đề nghị, như vẫn thường rủ rê thuở trước.

            Em ngoan ngoãn gật đầu.

            Quán cà phê có cái tên tiếng Pháp. Thấy cũng lạ. Chủ quán gốc Ả rập. Cà phê Pháp, Ý, Tây ban nha, Mỹ. Kiểu nào cũng có. Chỉ thiếu cà phê phin Việt Nam. Anh kéo ghế cho em ngồi. Em khẽ cám ơn. Anh cố nói không có chi bằng giọng khôi hài. Nhưng lòng anh se se một nỗi buồn như chút mật đắng lỡ tay làm vương vào món ăn.

            Người chạy bàn lại hỏi hai bạn dùng chi. Anh nhìn em rồi hỏi anh ta có bao nhiêu loại cà phê. Anh chàng kể ra một lô tên. Một cái tên Ý gợi trong anh sự tò mò trẻ con. Anh nhìn em, dò hỏi, “Cappuccino nghe?” Mình đi uống cà phê với nhau hàng trăm hàng ngàn lần nhưng chưa bao giờ thử cappuccino.

            “Anh có chắc là cà phê không? Coi chừng chè đấy.” Em hỏi lại bằng giọng khôi hài.

            “Không, cà phê mà; của Ý đàng hoàng.” Và anh anh dũng gọi hai ly cappuccino.

            Hai tách cà phê đầy bọt được mang ra mau mắn. Em lại sẻ bớt cà phê cho anh như mọi lần. Rồi mình vừa nhấm nháp, vừa nhìn nhau đăm đắm. Chả câu nói chuyện nào chen được vào khoảng giữa những trao gửi bằng ánh mắt. Em loay hoay với chiếc muỗm bạc và những cụm bọt cà phê màu nâu thẫm. Anh kiểm điểm, đo đếm em bằng ánh mắt xem em có còn như thuở nào. Anh nghĩ tới người thanh niên làm chung hãng em. Em phải thay đổi, phải không cô nhỏ. Người yêu cô ấy đưa cô ấy đi làm mỗi ngày làm sao không thay đổi cho được!

            “Anh nói chuyện gì đi.” Giọng em thì thầm.

            “Anh cứ ngỡ lần gặp cách đây sáu tháng; cái lần ở cà phê Hẹn; cái lần anh viết những câu thơ vào cuốn sổ tay của em ấy, nhớ không?” Em gật gù thay cho câu trả lời. Anh tẩn mẩn với những gợi nhớ dạt về từ ký ức, thầm thì kể lể, “Ừ, lần ấy đấy, anh cứ ngỡ đó là buổi hẹn cuối cùng...”

            Anh nói năng nhạt nhẽo; anh gợi ý bâng quơ, mãi mà vẫn chưa nói được với em điều mình muốn nói. Đến khi tách cà phê đã cạn, anh mới cố nói được một cách lúng túng, “Anh vẫn tự hứa với lòng là sẽ coi em như một người em gái, một người tình bé nhỏ, một cô bạn, nếu cần. Cho dù chuyện mình không đi đến đâu, anh vẫn muốn còn em như một người thân. Mai mốt, mỗi người một mái gia đình riêng, anh sẽ giới thiệu các con anh với em, chúng nó sẽ gọi em bằng cô; như mấy cô của chúng nó ở Việt Nam. Rồi em cũng sẽ có người bạn đời. Người bạn đời của em sẽ là bạn của anh. Hai gia đình sẽ thân với nhau hoài. Chả việc gì phải chia tay, chả việc gì phải cắt đứt như những cuộc tình nhân gian khác. Đó là tất cả những gì anh dự tính nói với em. Mãi đến bây giờ mới nói ra được.”

            Chao ơi, anh nói một hơi dài. Anh xúc động trong khi nói. Mắt anh ngó mông ra bên ngoài khung kính. Quán cà phê ấm cúng. Bên ngoài, những cành lá đu đưa trong gió. Sương mù rải mỏng trên khoảng công viên trước mặt. Đêm đặm đặc trên cao. Anh nói một thôi một hồi, quên bẵng đi là không biết em có sẵn sàng đón nhận những điều anh đang giải bầy không.

            Khi ngưng câu nói, anh quay lại, nhìn vào mắt em, bắt gặp cái nhìn rạng rỡ của sự tri ân nồng nhiệt. Nụ cười nở ra rạng rỡ cả không gian, nụ cười làm du dương thêm những nốt nhạc tình phát ra từ hệ-thống loa giấu kín trên trần nhà quán nước.       
   
“Phải không?” Anh hỏi trống.

            Em gật gù hưởng ứng, “Em cũng thích như vậy đó. Ai mà khi hết thương nhau rồi lại nhìn nhau như kẻ thù, anh nhỉ.”

            “Ừ, đó là thế gian thường tình. Như vậy không tốt; như vậy là mình yêu chính mình nhiều hơn yêu người yêu.”

            Anh vừa nói vừa xòe những ngón tay, đan lấy bàn tay em đặt hờ trên bàn. Mười ngón tay đan vào nhau, ấm áp. Luồng cảm xúc truyền vào thịt da nhau, làm ấm cả mặt bàn gỗ lạnh băng.

            “Sao hôm nay anh lại nói với em chuyện đó?” Em hỏi, những móng tay bấm vào lưng bàn tay anh.

            “Tại vì,” giọng anh trầm xuống như lời kinh xám hối của kẻ tội đồ, “Tại vì người ta nói với anh rằng ngày nào người yêu cô ấy cũng đến đón cô ấy đi làm. Anh không dám tin, nhưng anh nghĩ sớm muộn gì rồi...”

            Em không trả lời. Nụ cười trên khóe môi khô lại như cánh hoa còn cố níu kéo sự sống trong cái lạnh gay gắt sang mùa. Vậy là anh hiểu. Anh cố gắng tìm đề tài để thay đổi cái bầu không khí đang trĩu nặng những ưu tư, đang cộc cằn những dự đoán.

            “Cà phê ngon chứ nhỉ.”

            “Dạ. Mới đầu em cứ tưởng không phải cà phê.”

            “Anh biết cái tên cappuccino, nhưng chẳng biết mặt mũi nó ra thế nào. Hôm nay thì biết rồi.”

            “Em cũng vậy, hôm nay thì biết ca… ca gì nhỉ, anh viết lại chữ đó cho em học đi.”

            Anh mau mắn rút cây bút gài trong túi áo, nắn nót viết cái chữ Ý xuống miếng giấy chùi tay.

            “Lần sau thì cứ yên tâm mà gọi ca…” Em cúi nhìn cái tên viết trên mảnh giấy mà anh vừa mới đẩy qua phía em, cố gắng phát âm cho mạch lạc, rành rẽ. Bỗng dưng anh lại nghĩ đến người thanh niên đưa đón em mỗi ngày. Mai mốt em có thể yên tâm để gọi cappuccino mà uống với người ta. Nhưng anh tự hứa anh sẽ không buồn, dù nỗi đau đang cứa cái lưỡi dao cùn mằn của sự phụ bạc lên tim gan anh. Rồi em cũng sẽ phải có một người bạn đời. Bạn đời của em cũng là bạn của anh. Bạn trăm năm của anh cũng sẽ là bạn thân của em. Ai cấm chuyện đó nhỉ. Và mình sẽ coi nhau như bạn. Bạn. Bạn, cho đến cuối đời. Mình không lấy nhau, mình sẽ chẳng bao giờ lo chuyện ly thân, ly dị. Mình sẽ là bạn; cho đến cuối đời.

            “Em có bận gì không?” Anh dọ hỏi, như vẫn thường hỏi mỗi lần đưa em đi chơi tối.

            “Em có bận gì đâu!”

            Im lặng một lát, anh xoay xoay cái tách cà phê trong lòng bàn tay. Anh mân mê những ngón tay em buông hờ trên mặt bàn. Anh muốn hôn em như thuở nào. Anh muốn viết ra ý nghĩ đó thành những câu thơ lục bát. Nhưng sao lòng anh dửng dưng. Sao lòng anh bếp lạnh tro tàn. Anh nghe giọng mình nhàu nát như tờ thư bị vò xé trong cơn giận dỗi, và anh đề nghị, “Thôi, mình về nghe!”

            Em lặng lẽ gật đầu.

            Lúc ngồi với nhau trong xe, anh tỉ mẩn đếm những ngọn đèn néon trong bãi đậu. Đất nước người ta giầu có. Chỉ cái bãi đậu xe nhỏ mà có tới hàng trăm bóng đèn lớn nhỏ đủ cỡ. Những ý nghĩ quăng quật trong đầu óc anh như lũ tội nhân bị hành hạ, tra tấn. Anh tự trách mình khéo vẽ vời cho thêm phức tạp cõi sống này. Nếu chuyện không thành thì đã sao? Em với anh vẫn là bạn. Hình ảnh mờ nhạt người bạn trai của em hiện rõ dần trong trí anh. Mình đâu phải như thiên hạ thường tình.

            “Đồng ý nghe!” Em cắt ngang dòng suy tưởng của anh.

            “Đồng ý gì?”

            “Hai gia đình sẽ là bạn, mãi mãi.” Em vừa nói vừa đưa bàn tay cho anh bắt. Cách này em học được của anh. Mỗi lần có chuyện gì đắc ý, mình vẫn siết lấy bàn tay nhau như hai tên bạn cùng trang lứa.

            Anh rụt rè bắt lấy bàn tay em. “Đồng ý!”

            Em bóp chặt lấy tay anh, “Hứa nghe! Hứa sẽ mãi mãi là bạn thân của nhau.”

            “Ừ, hứa.”

            “Mình sẽ... yêu nhau bằng một thứ tình yêu cao cả.”

            “Ừ.”

            “Mình khác thiên hạ, phải không anh?”

            “Ừ... khác.”

            “Sao anh ậm ừ vậy?”

            Anh choàng tỉnh, “Ừ, khác chứ sao không. Em vẫn mãi là người tình... nhỏ bé...” Anh lúng búng cái câu vô nghĩa, và loay hoay đề máy xe.

            “Mai nhớ gọi cho em.”

            “Được.”

            Anh nghe tiếng em thở phào, khoan khoái như con chiên ngoan đạo trong tòa giải tội vừa nói xong những lời thú tội nặng nề ân oán.

            Chiếc xe lao vút đi trong đêm tối. Anh vói tay vặn lên một bản nhạc cố tình đã thâu sẵn để có lúc nào đó mở cho em nghe. Rồi anh cắt nghĩa lời bài hát như anh vẫn thường làm, đại khái rằng anh yêu em, nhưng đừng lo, lúc nào em thấy chán anh thì cứ nói thẳng cho anh biết, anh sẽ lặng lẽ rút lui.

            Em cười nhộn nhịp cả phố phường, “Tây nó yêu thoải mải anh nhỉ.”

            “Anh cũng thích vậy. Có gì mà phải trầm trọng rên rỉ như người Việt mình. Em thấy nhạc Việt Nam không, nghe là thấy muốn thất tình, phải không?”

            Anh hung hăng phê phán. Và anh nghe tiếng “dạ” của em, ngọt ngào như lời thưa gửi của một một cô dâu mới về nhà chồng.

            Lúc ngừng xe ở góc đường cho em xuống, anh cố đeo lên mặt một nụ cười thật rạng rỡ, “Mai sẽ anh gọi lại.”

            Đã dợm bước đi, em còn quay lại, ra dấu cho anh quay kính xe xuống, thò đầu vào thì thào, “Nhớ nghe. Hai gia đình sẽ là bạn...”

            “Nhớ.”

            Rồi em tung tăng bước về phía cửa chung cư. Thế là hết. Lòng anh thắt lại như con bệnh thần kinh trong cơn trầm uất. Xin chào. Goodbye. Adieu. Adios. Sayonara. Vĩnh biệt cô nhỏ. Anh nói dóc đấy. Anh cũng thường tình như thiên hạ vậy thôi. Bộ nghĩ anh không biết đau hay sao mà đề nghị oái oăm vậy? Anh chả bao giờ điện thoại cho em nữa đâu. Bạn đời của em làm sao có thể là bạn thân của anh được.

Anh là kẻ đến trước mà!

            Tối nay, anh sẽ gỡ dây điện thoại ra khỏi chốt cắm. Rồi mai sẽ đổi số điện thoại khác. Tất cả rồi cũng phải đổi thay. Chỉ còn lại một điều bất biến; đó là tình yêu anh dành cho em.

            Để mãi mãi em vẫn là một người tình bé nhỏ. Ngoài ra, dẹp hết!

            Anh cũng thường tình như thiên hạ vậy thôi, cô nhỏ à.

         Hoàng Chính       
(Ngày 03 tháng 01, 1996) 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.