Hôm nay,  

'Thế Chiến Tương Lai Sẽ Bùng Nổ Vào Năm 2034', Tiểu Thuyết của Eliot Ackerman & James Stavridis

27/06/202110:44:00(Xem: 3528)

Điểm Sách: Thế Chiến Tương Lai Sẽ Bùng Nổ Vào Năm 2034
Tiểu Thuyết của Eliot Ackerman & James Stavridis (New York: Penguin Press, 2021)

American Purpose


Tác giả: Francis Fukuyma-Dịch giả: Đỗ Kim Thêm 


Lời người dịch: Bang giao Hoa Kỳ và Trung Quốc bước vào một bối cảnh mới sau khi Joe Biden nhậm chức: Cả hai cường quốc chấp nhận phục hoạt chủ nghĩa đa phương là một cơ chế tối thiểu và hữu hiệu để bắt đầu hợp tác song phương và quốc tế. 


Sau các cuộc hội thảo song phương tại Alaska, G7 và NATO, một sự thất vọng đã phơi bày: hai cường quốc trở nên gay gắt  cáo buộc nhau về bản chất của chế độ, nên các vấn đề tồn đọng như cạnh tranh mậu dịch, chuyển giao công nghệ, vi phạm nhân quyển, Đài Loan và Biển Đông không có những cách giải quyết mới cho phù hợp. Quan trọng nhất là cả hai đều quên lợi ích phát triển của các nước chậm tiến và giá trị phổ quát cho cộng đồng quốc tế.


Các bất lực nội tại của từng chế độ vẫn không được cải thiện mà còn trẩm trọng hơn. Trung Quốc và Hoa Kỳ đều không biện minh được tính cách ưu việt của chế độ trong khi cực lực bài bác các điểm yếu cùa đối phương. Trung Quốc không thể biện minh cho việc vi phạm luật thương mại quốc tế, tác quyền trí tuệ và chuyển giao công nghệ là một mô hình lý tưởng trong việc phát triển để cho các nước noi theo. Việc vi phạm nhân quyền trong nước, cạn kiệt môi sinh và lạm dụng địa chính trị để xâm chiến khu vực cũng không phải là đặc thù mà Trung Quốc tiếp tục hãnh diện. 

Mô hình phát triển của phưong Tây cũng đã đi vào tàn lụn vì các khùng hoảng tài chánh, bất bình đằng xã hội, bất công  kinh tế và kỳ thị sắc tộc không được giải quyết. 


Vấn đề không dừng lại ở các luận điểm về đối tác chiến lược, cạnh tranh kinh tế hay phân hoá xã hội mà quan trọng hơn là tìm xem cà hai Trung Quốc và Hoa Kỳ có  nguồn lực thực sự của một cường quốc, niềm tin nơi xã hội và  khả năng lãnh đạo không. Nhìn chung, không có một bảo đảm nào cho hai chế độ có thể vận hành hoàn hảo trong tương lai.


Hoa Kỷ và Trung Quốc hiện nay không quan tâm đến những  lợi ích của các quốc gia làng giềng và quốc tế. Cả hai đã sử dụng ngoại giao độc hại để làm trầm trọng hơn cho tình hình. Do đó, việc hổi phục chủ nghĩa đa phương không mang lại một ý nghĩa thiết thực nào như kỳ vọng ban đầu.

Tình trạng bất trắc sẽ là một lo âu chung cho cộng đồng quốc tế. Tình hình đối đầu tại Biển Đông có thể dẫn đến một cuộc thế chiến vào năm 2034 không, còn quá nhiều yếu tố để thảo luận mà tiểu thuyết giả tưởng cùa Eliot Ackerman & James Stavridi là một đóng góp hữu ích.


***


2034: A Novel of the Next World War tưởng tượng về một cuộc chiến tương lai giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra trong cùng năm, giống như sách Hạm đội Ma của Peter Singer. Đô đốc Stavridis có một binh nghiệp nổi bật bao gồm việc chỉ huy một nhóm tàu sân bay chiến đấu không kích, Chỉ huy Bộ Tư lệnh Miền Nam và sau đó là Tư lệnh Tối cao Đồng minh Châu Âu, trước khi nghỉ hưu và trở thành Khoa trưởng của Trường Luật và Ngoại giao Fletcher. Cuốn tiểu thuyết là một bài đọc nhanh chóng và hấp dẫn, chứa đầy các chi tiết của các hoạt động hải quân mang lại cho sách rất nhiều màu sắc và tính hợp lý.


2034

Ảnh bìa sách


Điều đã làm tôi lo lắng đôi khi là chúng ta đã không hình dung được một cách phù hợp về một cuộc chiến trong tương lai với Trung Quốc có thể khởi động như thế nào. Viễn cảnh của một cuộc chiến như vậy là khủng khiếp đến nỗi người dân bình thường trong và ngoài khu vực chọn cách né tránh chủ đề này, đó là chuyện tự nhiên. 

Tuy nhiên, nếu muốn ngăn chặn một cuộc chiến như vậy, chúng ta cần nghĩ kỹ về những kịch bản này và soạn thảo kế hoạch đối phó. Ngày càng có nhiều sự công nhận là đối với sức mạnh quân sự của Trung Quốc, Đài Loan dễ bị tổn thương, cho đến nay, việc này có ít người coi trọng. Trong năm qua, Trung Quốc đã hành xử quá gây hấn đối với Đài Bắc, và những lời lẽ hùng hồn của các nhà lãnh đạo Trung Quốc khi dùng các hành động quân sự để buộc phải thống nhất đất nước đã trở nên thường xuyên và chói tai hơn. Nếu không xem việc công bố các ý định này một cách nghiêm túc thì sẽ thật là điên rồ.

Trong Chiến tranh Lạnh, các chiến lược gia đã nghĩ qua một số kịch bản kinh điển cho một cuộc xung đột giữa khối NATO-Warsaw, như một cuộc chiếm đóng của Liên Xô tại Berlin hoặc Hamburg, hoặc một cuộc xâm lược toàn diện trên khắp đồng bằng Bắc Đức. Các kịch bản về cách mà hai bên có thể leo thang dẫn đến khái niệm mở rộng việc răn đe và các khoản đầu tư mới cho các lực lượng quy ước mà nó sẽ làm cho sự leo thang nhanh chóng ít có khả năng xảy ra.

Trong khi giới hoạch tại chổ như Bộ Tư lệnh Ấn Độ -Thái Bình Dương của Hoa Kỳ đã làm việc tận tụy về những biện pháp dự phòng như vậy, đã có rất ít cuộc thảo luận công khai về một cuộc chiến trong tương lai ở Đông Á có thể xảy ra như thế nào, hoặc mức độ leo thang mà họ sẽ liên luỵ. Đây là những gì làm cho một tác phẩm hư cấu như 2034 mang lại một giá trị đặc biệt. Bất kỳ nỗ lực nào như vậy để đưa ra các kịch bản sẽ gây chỉ trích về tính hợp lý của chúng, và không có kịch bản nào có vẻ là hoàn toàn hợp lý cho đến sau khi nó xảy ra.

Cảnh báo hư hại: cuộc chiến diễn ra vào năm 2034 bắt đầu với việc Trung Quốc sử dụng việc kết hợp khả năng tấn công trên mạng và lén lút để làm che mắt không chỉ Hạm đội Thái Bình Dương, mà còn trong toàn bộ Cơ quan Chỉ huy Quốc gia Hoa Kỳ. Trung Quốc đồng thời giúp Iran kiểm soát máy bay của Mỹ kiểu F-35 ở Vịnh Ba Tư và buộc phi công phải hạ cánh ở Bandar Abbas. Cắt đứt các mối liên lạc trong chỉ huy, một nhóm khu trục hạm thực hiện một cuộc thao diễn quân sự về Tự do Hàng hải gần các đảo ở Biển Đông, nơi mà Trung Quốc tuyên bố là có chủ quyền, bị nhử vào trong một cuộc chạm trán, và ba chiến hạm Mỹ bị đánh chìm. Sau đó, gánh nặng của vị tổng thống Mỹ hoặc là sẽ lùi bước hoặc trả đũa. 

Khi cố gắng trả đủa, sau đó, Washington phải chịu một thất bại thậm chí còn nhục nhã hơn và mất một bộ phận đáng kể trong binh chủng Hải quân. Tại thời điểm này, Trung Quốc di chuyển về hướng Đài Loan, bạn phải đọc cuốn sách này để tìm hiểu về những hậu quả bất ổn sẽ xảy ra. Cho tôi ghi nhận rằng Tổng thống Hoa Kỳ vận dụng vũ khí hạt nhân như là một chiến thuật tương đối sớm vì không có nhiều lựa cách chọn thông thường khác như theo ý mình muốn sử dụng.

Ý tưởng cho rằng Trung Quốc có thể chế ngự toàn diện lĩnh vực không gian mạng kể từ ngay bây giờ cho đến mười bốn năm nữa, hiện nay việc này dường như không thể xảy ra. Nhưng đó là một lời cảnh báo hữu ích để cho thấy lĩnh vực chính của việc cạnh tranh chiến lược đã thay đổi đáng kể như thế nào và có thể tiếp tục thay đổi nếu chúng ta không thực hiện các biện pháp để bảo vệ chính mình. 

Đóng góp quan trọng hơn của cuốn sách là giúp cho chúng ta xác định mức leo thang. Nhiều chiến lược gia không kinh nghiệm sẽ nói rằng việc cố tình đánh chìm ba chiến hạm Mỹ và hậu quả là mất hàng ngàn mạng sống của người Mỹ sẽ gây ra một cuộc chiến toàn diện giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và vì lý do đó sẽ là một rủi ro quá lớn đối với bất kỳ giới lãnh đạo Trung Quốc nào. Nhưng đây chính xác là một phần của kịch bản mà tôi thấy hợp lý một cách đáng sợ. Nỗi sợ hãi về cuộc chiến toàn diện giảm đi theo cả hai chiều hướng: Hoa Kỳ phải mất mát nhiều như Trung Quốc trong bất kỳ sự trả đủa nào, và đó là việc thúc đẩy cho họ nhiều hơn là không leo thang thành chiến tranh toàn diện ngay trong những trường hợp này.

Loại tính toán sai lầm này đã xảy ra trước đây trong lịch sử. Người Nhật đã không tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, khi họ nghĩ rằng Hoa Kỳ sau đó sẽ tuyên chiến toàn diện và tiến quân qua Thái Bình Dương để chiếm đất Nhật Bản, hoặc họ có thể giành chiến thắng trong một cuộc chiến như vậy. Các nhà hoạch định của cuộc tấn công tính toán rằng một phản ứng như vậy sẽ quá tốn kém đến nỗi Hoa Kỳ sẽ lùi bước, và để Nhật Bản làm gì như họ muốn ở Mãn Châu, Singapore và Đông Ấn thuộc Hà Lan. 

Về sau khi nhìn lại, chúng ta mới biết rằng người dân Mỹ sẵn sàng trả cái giá đó, nhưng liệu họ có làm như vậy trong một cuộc chiến tương lai ở Đông Á không? Các vũ khí hạt nhân và triển vọng thương vong trầm trọng ở Lục địa Hoa Kỳ không xảy ra vào năm 1941, nhưng chúng sẽ xảy ra trong bất kỳ cuộc đối đầu nào trong tương lai với Trung Quốc.

Có những phần khác của kịch bản trong sách năm 2034 ít hợp lý hơn. Cuộc chiến Mỹ-Trung không leo thang vì có sự can thiệp của Ấn Độ, lúc đó đã phát triển khả năng quyền lực mà không ai lường trước được. Có tiền đề cho rằng khả năng trên không gian mạng đã trở nên quá hoàn hảo đến mức gây cho các cơ quan chỉ huy hoàn toàn mù quáng cho phép các nhóm tàu sân bay chiến đấu (CBG) hoạt động gần bờ biển của kẻ thù và vẫn xem là có liên đới. 

Nếu tiền đề về không gian mạng lỏng lẻo hơn, các CBG trở nên rất dễ bị tổn thương nhiều hơn trước so với loại tên lửa đạn đạo và tầm xa, và rất có thể sẽ phải triệt thoái sớm trong cuộc xung đột. Các phi công anh hùng thuộc binh chủng Hải quân đóng một vai trò quan trọng trong sách năm 2034, nhưng sẽ không có khả năng này nếu tình trạng lộn xộn thực sự bắt đầu. Người ta tưởng tượng kịch bản của cuốn sách sẽ diễn ra rất khác nếu Stavridis là một người chỉ huy tàu ngầm, không phải là nhóm tàu sân bay tấn công.

Tuy nhiên, điều này không làm mất đi tính cách hữu ích của tiểu thuyết. Ngoài các nhà hoạch định quân sự chuyên nghiệp, đơn giản là hiện nay không có nhiều suy nghĩ khó khăn về một cuộc chiến ở châu Á và tình trạng leo thang có thể diễn ra như thế nào. Trong Chiến tranh Lạnh, các Tổng thống Hoa Kỳ và bộ tham mưu dân sự của họ đã có những ý tưởng khá rõ ràng về việc mở rộng các răn đe, và có thể kéo lùi các nhà hoạch định quân sự, nếu kịch bản của họ dựa vào các tiền đề đáng ngờ. Tôi không đoan chắc đó là trường hợp cho hiện nay.

Nếu có một mục tiêu duy nhất cho chính sách đối ngoại của Mỹ nhằm vào châu Á, đó là ngăn chặn về một cuộc xung đột quân sự Mỹ-Trung xảy ra. Cách mà bạn làm điều này không phải bằng cách bỏ qua khả năng chiến tranh hoặc từ bỏ việc soạn thảo kế hoạch chống lại nó; thay vào đó, bạn cần hiểu chính xác điểm leo thang nằm ở đâu và làm thế nào để tự tạo các lựa chọn thay thế cho các lựa chọn quan trọng và phá hoại được mô tả trong sách năm 2034. Để đạt mục tiêu này, một công trình tưởng tượng theo lối tiểu thuyết có thể hữu ích hơn bất kỳ số lượng bài báo học thuật nào khác về chủ đề này.


Bài liên quan:

Điều gì có thể gây ra chiến tranh Mỹ-Trung?

Hồi phục và tương tranh của Mỹ và Trung Quốc

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Trịnh Y Thư vừa ấn hành tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, gồm nhiều bài viết trong nhiều chủ đề đa dạng, phần lớn là về văn học nghệ thuật, đôi khi là lịch sử, khoa học, xã hội. Tuyển tập dày 294 trang, đang lưu hành trên các mạng, như Amazon và Barnes & Noble. Nhìn chung, tác phẩm giúp độc giả soi rọi thêm nhiều cách nhìn đa dạng, mới mẻ, kể cả khi tác giả viết về những người viết chúng ta đã quen thuộc trong văn học Việt Nam, như về Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khánh Minh, và nhiều người khác...
Hans Fallada, tên thật là Rudolf Ditzen, người đã sống giữa những biến động của nước Đức — từ sự sụp đổ của Đế chế, đến cơn bão của Thế chiến thứ nhất, rồi bước vào cơn ác mộng của Đệ tam đế chế. Trước chiến tranh, Fallada là một nhà văn nổi tiếng, tác giả của Little Man, What Now?, được Hollywood dựng thành phim. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền, ông bị cấm xuất bản, bị Gestapo rình rập, và bị ép phải viết những tác phẩm phục vụ tuyên truyền. Tưởng chừng như bị nghiền nát giữa bạo lực và sợ hãi, ông lại tìm thấy trong ngục tối một đường sống của tâm hồn – viết. Trong ngục tối, ông bí mật viết nên ba cuốn tiểu thuyết mã hóa, và sau chiến tranh, vừa thoát xác một người sống sót, ông viết cuốn cuối cùng: Mỗi người đều chết một mình (Every Man Dies Alone).
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt trong hành trình của Ocean Vuong (1). Nhà văn, nhà thơ gốc Việt nầy đã trở thành một trong những khuôn mặt quan trọng nhất của văn chương Mỹ đương đại. Không còn là “hiện tượng thơ”, không còn được biết đến qua nỗi đau di dân, không còn đứng trong hào quang của Night Sky with Exit Wounds hay thành công bất ngờ của On Earth We’re Briefly Gorgeous trước đây, Ocean Vuong năm 2025 là một nhà văn đang mở ra biên giới mới của chính mình với The Emperor of Gladness, NXB Penguin Press, New York, 2025)...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Vâng, cảm ơn nhà thơ thiền sư Thiện Trí. Ý nghĩa rất minh bạch, rằng hãy về thôi. Về thôi, về mặc Cà Sa / Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương... Hiển nhiên, không phải là đổi y phục, mà phải là chuyển hóa nội tâm. Cởi áo Ta Bà không đơn thuần là rời bỏ đời sống cư sĩ hay thế tục, mà là buông bỏ tâm vọng động, tâm phân biệt, tâm chấp ngã vốn đã bị phong sương của sinh tử bào mòn. Mặc áo Cà Sa không nhất thiết là khoác lên mình chiếc áo của người xuất gia, mà là khoác lên tâm từ bi, trí tuệ, và vô ngã.
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng nhân kỷ niệm 50 năm xa quê hương sống đời viễn xứ (1975-2025). Sách được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac.
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...
Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, “Hạt U Minh.” Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.