Hôm nay,  

Tản Mạn Ngày Chớm Thu

01/08/202109:51:00(Xem: 2870)

 

 

Thu chưa đến nhưng dấu hiệu tàn phai, héo úa, đổ nát cũng đã biến hiện từng ngày trên những tán lá, và trên những trang báo, trang mạng xã hội, màn ảnh truyền hình…

Đại dịch bùng phát, hoành hành khắp thế giới, tiếp tục cướp đi nhiều mạng sống, làm điêu đứng hoạt động y tế, kinh tế, giáo dục… của nhiều quốc gia - đặc biệt là các nước nghèo ở Nam Mỹ và Á châu. 19 tỉnh thành miền nam Việt Nam bị lệnh giãn cách toàn xã hội. Không thể ra đường kiếm sống, đi chợ, gây nên khủng hoảng khó khăn, thiếu thốn lương thực nhiều ngày cho hàng triệu đồng bào nằm trong các khu vực bị phong tỏa.

Thế Vận Hội vẫn được khai mạc tại Tokyo với sự tham gia của hơn 11,000 vận động viên, 950 quan khách dự khán, và lần đầu tiên trong lịch sử: không một khán giả nào được phép vào sân vận động với sức dung chứa 70,000 chỗ ngồi.

Do hiện tượng ấm lên toàn cầu, biến đổi khí hậu, thảm thực vật cằn khô, lượng mưa giảm, nắng nóng chết người, nhiệt độ ở một số khu vực tăng lên kỷ lục (hơn 43 độ C / 110 độ F), khiến cháy rừng dữ dội tại miền Tây Bắc Mỹ. Năm nay không chỉ ở California mà còn ở Oregon, Washington, Nevada cũng như một số nơi thuộc tỉnh bang British Columbia, Canada: hàng trăm nghìn mẫu rừng cháy suốt và lan nhanh không thể kiểm soát nổi. Khói từ những đám cháy rừng miền tây kéo qua đến tận miền đông Hoa Kỳ.

Thuốc chủng ngừa Covid-19 dư thừa ở nước này—vì nhiều người vẫn không chịu tiêm, lại thiếu trầm trọng ở nước khác. Đâu đó tại một số tiểu bang và thành phố ở Hoa Kỳ, vẫn còn kiện tụng về việc cho phép không cần mang khẩu trang, hay bắt buộc mang khẩu trang cho học sinh vào lớp. Trong khi đó, phụ huynh học sinh ở các nước nghèo đang bị dịch tràn lan thì có thể thấy trước viễn ảnh trường sẽ không khai giảng vào niên khóa tới; và nếu có khai giảng, không chắc có đủ tiền đóng học phí và mua sắm học cụ cho con em, vì trước nhất phải lo kiếm miếng ăn cho gia đình.

Đói thiếu, nghèo khổ, cùng với bất công xã hội, chặn bít mọi con đường hướng đến tương lai.

 

Tương lai, theo một góc cạnh nào đó từ đời sống thực tế xã hội, có vẻ như chỉ dành cho những hoàn cảnh tương đối ổn định, và có chiều hướng ưu đãi cho những hoàn cảnh đã nằm trên thang bậc cao sang, ưu tú. Từ nơi ổn định, người ta mới có thể nghĩ đến một tương lai xa hơn, nghĩ đến một cơ hội phát triển nào đó được dự phóng hoặc mơ tưởng từ lâu trong quá khứ. Nhưng đối với những kẻ bần cùng, khốn khó, tương lai là thứ xa xỉ, chưa hề hiện hữu. Đầu tắt mặt tối, chạy ăn từng bữa, chỉ có ngày hôm nay, chỉ có hiện tại hay một thời hạn rất gần, rất ngắn trong ngày. Những tia hy vọng nào đó chợt loé lên trong phút giây là lịm tắt ngay sau đó.

Nhưng dù thế nào, trong cuộc sống bần cùng hay phú quý, đối với người cha người mẹ, tương lai chính là những đứa con. Con là vốn liếng của cha mẹ. Cha mẹ đầu tư vốn liếng này cho tương lai của mình, mà kỳ thực chính là tương lai của con. Tương lai của con là tương lai của cha mẹ. Con hơn cha là nhà có phúc. Bởi vậy, cha mẹ sẽ vui khi con cái vượt trội hơn mình. Từ thể chất đến tinh thần, từ kiến thức đến kinh nghiệm sinh nhai lăn lóc với đời, mỗi thứ con đều hơn mình là hạnh phúc lắm rồi. Ôm ấp, lắng nghe, trò chuyện cùng con từ thuở con còn trong bụng mẹ. Cho đến khi sinh con ra, nhìn ngắm, nâng niu, hát ru, bú mớm, thay tã cho con mỗi ngày… cha mẹ nào có nệ hà chi; chỉ biết thương con thì chăm sóc con, lo cho con miếng ăn, lo cho con đến trường. Rồi một ngày con vụt lớn lên thành một chàng trai khôi ngô, thành một thiếu nữ kiều diễm. Con đi theo lý tưởng; con đi theo tình yêu. Sự thực này cha mẹ đã liệu trước, nhưng khi con rời xa rồi, cha mẹ vẫn cảm thấy hụt hẫng, ngỡ như điều ấy không thể xảy ra, không nên xảy ra. Con thương, con hiếu với cha mẹ thì phải ở mãi bên cha mẹ – cha mẹ thường nghĩ vậy. Nhưng thực tế là một ngày nào đó, con sẽ rời xa cha mẹ để sống với tương lai của con. Tợ như cha mẹ đã từng rời bỏ ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại. Con không thể quấn quýt mãi bên cha mẹ; mà cha mẹ thương con, cũng không thể níu kéo, ràng buộc con phải suốt đời quanh quẩn bên những cội cây già cỗi. Con là tương lai của cha mẹ, và con cũng sẽ có tương lai nơi những đứa con của con. Đời sống của cha mẹ, vì vậy, là một cuộc hy sinh. Hy sinh quá khứ (ông bà, tổ tiên), hy sinh hiện tại (cha mẹ), tất cả vì tương lai (con cái). Sóng sau vượt sóng trước. Dòng chảy của huyết thống, của gia tộc, là đi tới, tiến lên. Trong dòng chảy đó, luôn có sự tiếp nối không ngừng của quá khứ, hiện tại và tương lai. Hiện tại là tương lai của một quá khứ, mà cũng là quá khứ của một tương lai. Không có đứt đoạn. Cho nên, sự hy sinh của cha mẹ hiện tại hay của con cái (khi làm cha mẹ ở tương lai của chúng), không có nghĩa là vong ân, vong bản, phủ nhận quá khứ, mà chỉ là, sống thì phải đi về hướng tương lai. Sống mà không có tương lai, không cố gắng vượt khỏi số phận hiện tại mới chính là sự chối bỏ cội nguồn, phụ lòng cha mẹ, tổ tiên.

 

Lệnh giãn cách xã hội, ngăn sông cấm chợ, lại được kéo dài thêm cho đến đầu tháng sau tại 19 tỉnh thành miền nam, và cũng đã được áp dụng nghiêm nhặt tại Hà-nội và nhiều tỉnh thành khác khắp đất nước. Con số bệnh nhân bị lây nhiễm và tử vong tiếp tục tăng lên từng ngày.

Dân tình đói khổ. Những người bán hàng rong độ nhật loay hoay không biết làm sao có bữa ăn cho gia đình. Những đứa bé đi bán vé số kiếm cơm không thể ra đường. Hàng quán đóng cửa, dân tiểu thương ở nhà, lo âu nghe ngóng tin tức. Công nhân nghỉ việc nằm nhà, cách ly. Những cụ già neo đơn, những gia đình lúc nhúc trẻ con, mong chờ những hộp cơm từ thiện như phép lạ từ đâu chợt đến. Bệnh viện vốn chưa bao giờ đủ giường cho bệnh nhân, lại càng không có chỗ để tiếp nhận những ca cấp cứu vì nhiễm dịch.

Ở một xứ sở tự do, giàu mạnh hàng đầu thế giới, trên mạng truyền thông xã hội, vẫn còn có những tranh cãi và chỉ trích nhau về việc nên hay không nên chích ngừa, thuốc chích ngừa có đáng tin hay không, cần hay không cần mang khẩu trang, siêu vi khuẩn corona có thật hay chỉ là tin giả — trong khi trên thế giới đã có hơn 190 triệu người bị lây nhiễm và hơn 4 triệu người tử vong vì dịch bệnh này.

Bất công xã hội vẫn luôn là vấn nạn của loài người, nhất là nơi những quốc gia đảng trị và độc tài. Những cuộc biểu tình của quần chúng và các phong trào đòi hỏi bình đẳng xã hội cứ trỗi lên rồi lại chìm xuống, nơi này nơi kia, như sóng nhấp nhô vỗ vào những tường đá kiên cố bên bờ đại dương thống khổ.

 

Những người cha mẹ âu lo ôm lấy con thơ, không biết mình có đủ khả năng bảo vệ con trước những cơn sóng dữ. Hôm qua không có việc làm, hôm nay không có thức ăn, không biết ngày mai con có thể đến trường được hay không. Con không có ăn, con không đến trường, thì tương lai của con là gì, con là gì ở tương lai?

 

Thu chưa đến mà lá đã ươm màu. Nhớ những mùa thu quê hương. Nhớ bên sông lộng gió, có những con chuồn chuồn chợt bay đến rồi chợt vút đi. Nhớ hoàng hôn xuống, ửng một trời hồng tía; đàn cò trắng im lặng vỗ cánh bay về dãy núi phía tây. Nhớ những cơn mưa phùn trên thành phố yên vui. Nhớ con đường dốc ngập xác lá me dẫn lên ngôi chùa trên núi. Nhớ ngôi trường xưa ngày khai giảng vẫn còn xác phượng cuối hè nhuộm đỏ góc sân chơi. Nhớ ngôi nhà cổ kính một thời bầy trẻ lớn lên trong vòng tay bảo bọc yêu thương của ba mẹ. Và con nhớ ba mẹ lắm! Tưởng chừng ba mẹ chưa hề xa con. Tưởng chừng con chưa hề xa ba mẹ. Ba mẹ ơi, thu sắp về rồi. Con suy nghĩ lan man đủ thứ chuyện rồi cũng nhớ ba, nhớ mẹ. Ồ, tương lai của con, không là gì cả. Chỉ là trong phút giây hiện tại này, con nhớ ba mẹ khi thu chớm sang.

 

Mùa thu. Đã có những thu buồn lê thê đi qua cuộc đời, và đi qua những phận người. Đã có những lá vàng rơi ngập công viên mà người quét lá đi đâu biền biệt… Nhưng cái gì rồi cũng trôi qua. Tương lai của thu sẽ là xuân. Tương lai của xuân, lại là thu. Không có xuân trường cửu thì cũng không có thu trường cửu. Hôm sau một người quét lá nào đó sẽ quay trở lại, cặm cụi làm công việc bỏ dỡ của người hôm trước. Và ngày mai, lá sẽ ươm xanh trên những nhành khô khi bình minh vỡ tràn.

 

California, ngày 25 tháng 07 năm 2021

Vĩnh Hảo

www.vinhhao.info 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.