Hôm nay,  

Nhà Thơ Hoa Nguyen và ‘Một Ngàn Lần Bạn Đã Mất Bảo Vật Của Mình’

01/10/202100:00:00(Xem: 3208)

NHA-THO-HOA-NGUYEN-01
Nhà thơ Hoa Nguyen. (nguồn: https://www.hoa-nguyen.com
  
Tương lai không phải của chúng ta
để thấy   một cách dịu dàng
(Hoa Nguyen - “Seeds and Crumbs”)
 
Tập thơ nhan đề “A Thousand Times You Lose Your Treasure” (Một Ngàn Lần Bạn Đã Đánh Mất Bảo Vật Của Mình) của nhà thơ Hoa Nguyen đã được vào danh sách chung kết dài (longlist finalists) về thơ cho giải thưởng 2021 National Book Awards, theo bản tin hôm 24 tháng 9 năm 2021 của Business Insider.

Hội bất vụ lợi National Book Foundation mỗi năm đều trao giải thưởng cho các sách mới ấn hành. Ban giám khảo được đề cử từ những người trúng giải trong quá khứ và nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng khác. Riêng về lĩnh vực thơ, họ có một mùa hè đọc các thi tập do các nhà xuất bản nộp lên, để họ chọn và công bố danh sách dài gồm 10 thi tập chung kết cho thơ vào tháng 9 mỗi năm, và sẽ công bố danh sách ngắn gồm 5 thi tập chung kết cho thơ vào tháng 10.

Tập thơ thắng giải xuất sắc nhất sẽ công bố vào ngày 17/11/2021. Người thắng sẽ lãnh $10,000, người trong danh sách chung kết lãnh $1,000. Nhưng uy tín và thương vụ sách sẽ tăng vọt. Đặc biệt giới yêu thích thơ trong cộng đồng Việt hải ngoại rất hoan hỷ để đón nhận tin này như một bước tiến khác đi vào dòng thi ca chính của văn học Mỹ mà các văn thi sĩ người Việt đã, đang và sẽ dự phần.
 
Giải Thưởng National Book Awards
 
Giải Thưởng National Book Awards là giải thưởng văn học hàng năm tại Hoa Kỳ. Vào Lễ Trao Giải Thưởng National Book Awards cuối cùng vào mỗi tháng 11, Tổ Chức National Book Foundation trao các Giải Thưởng National Book Awards và 2 giải thưởng thành tựu trọn đời cho các tác giả, theo www.en.wikipedia.org.

Giải Thưởng National Book Awards được thành lập vào năm 1936 bởi Hội Các Nhà Bán Sách Mỹ, đã bị bãi bỏ trong Thế Chiến Thứ Hai, và tái thành lập bởi 3 tổ chức kỹ nghệ sách vào năm 1950. Các tác giả và nhà xuất bản không phải ở Hoa Kỳ đều có đủ điều kiện để lãnh giải vào thời trước chiến tranh. Bây giờ họ chỉ trao giải cho các tác giả Mỹ có sách xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm trao giải.

Tổ chức bất vụ lợi National Book Foundation đã được thành lập vào năm 1988 để điều hành và nâng cao Giải Thưởng National Book Awards và “đi xa hơn vào các lãnh vực giáo dục và xóa mù chữ.” Tổ chức này có sứ mệnh “để tán dương nền văn học tốt nhất tại Mỹ, mở rộng độc giả của họ, và bảo đảm sách có một vị trí nổi bật trong nền văn hóa Mỹ.”

Tính tới năm 2018, đã có 1,637 cuốn sách đã được đề cử vào 5 thể loại giải, đứng đầu bởi thể loại tác phẩm không hư cấu với 546 đề cử.
 
Về nhà thơ Hoa Nguyen
 
Nhà thơ Hoa Nguyen sinh vào năm 1967 tại tỉnh Vĩnh Long, Miền Nam Việt Nam, theo www.en.wikipedia.org cho biết.

Nhà thơ Hoa Nguyen là con gái của một phụ nữ Việt Nam. Cha ruột của cô là một người Mỹ đã bỏ gia đình trước khi Nguyen sinh ra đời. Nguyen lớn lên tại vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn và đã học về thơ tại Trường New College of California ở thành phố San Francisco. Cô đã sang định cư ở Canada vào năm 2011 và hiện đang sống tại thành phố Toronto thuộc tỉnh bang Ontario của Canada.

Cùng với phu quân Dale Smith, Nguyen đã biên tập 10 số của Tạp Chí Skanky Possum Magazine, và với tờ tạp chí này, đã xuất bản nhiều sách và sách nhỏ gọn bởi các tác giả Kristin Prevallet, Tom Clark, Frank O'Hara, và nhiều người khác. Họ cùng nhau tổ chức các buổi đọc sách được thực hiện bởi Pierre Joris, Linh Dinh (một nhà thơ Mỹ gốc Việt), Susan Briante, Joshua Marie Wilkinson, Kate Greenstreet, Laynie Browne, Anselm Berrigan, và nhiều người khác. Kể từ năm 1998, cô đã hướng dẫn một lớp viết văn trên mạng và trực tiếp tập trung vào các tác phẩm của những nhà thơ như Alice Notley, Eileen Myles, Joanne Kyger, Philip Whalen, Charles Olson, Emily Dickinson, và Gertrude Stein. Hiện nay cô dạy về thơ tại Đại Học Ryerson ở Toronto, chương trình MFA cư dân thấp của Miami, và Trường Nghệ Thuật Milton Avery School tại Đại Học Bard College.

Cô đã thuyết trình và giảng dạy tại nhiều trường cao đẳng, đại học, và các tổ chức cổ võ việc học chữ gồm Đại Học Princeton, Viện Chautauqua Institute, Đại Học Brown, Đại Học St. Mary’s College of California, và Trung Tâm Nghệ Thuật Banff.

Thơ của cô đã được phổ biến trong nhiều tạp chí và các tuyển tập thơ, gồm “Days I Moved Through Ordinary Sound: The Teachers of WritersCorps in Poetry and Prose” (City Lights xuất bản vào năm 2009), “The Best of Fence” (Fence Books xuất bản vào năm 2009), “For the Time Being: A Bootstrap Anthology” (Bootstrap Books xuất bản vào năm 2008), và trong “An Anthology of New (American) Poets,” “Black Dog, Black Night: Contemporary Vietnamese Poetry” (Milkweed Editions xuất bản vào năm 2008), “Inheriting the War: Poetry & Prose” được thực hiện bởi Descendants of Vietnam Veterans and Refugees (Norton xuất bản vào năm 2017), “The Best of The Best Canadian Poetry in English: Tenth Anniversary Edition” (Tightrope Books xuất bản vào năm 2017), “Poem-a-Day: 365 Poems for Every Occasion” (Abram Books xuất bản vào năm 2016), “Best Canadian Poetry In English 2015 and 2016” (Tightrope Books xuất bản), “The Volta Book of Poets” (Sidebrow xuất bản vào năm 2015), “For the Time Being: A Bootstrap Anthology” (Bootstrap Books xuất bản vào năm 2008), và “Not for Mothers Only” (Fence Books xuất bản vào năm 2007).


Cô là tác giả của “Dark” (xuất bản năm 1998), “Parrot Drum” (Leroy xuất bản năm 2000), “Your Ancient See Through” (Sub Press xuất bản năm 2002) và “Red Juice” (Effing xuất bản năm 2005), “Hecate Lochia” (Hot Whiskey Press xuất bản năm 2009), cũng như nhiều bài được đăng trên  mạng. Nguyen thường được mời đọc thơ, làm thơ tại nhà, và giảng về thơ cho các tổ chức trên khắp nước.

Tuyển tập thơ của cô, “As Long As Trees Last” [Cho Đến Bao Lâu Cây Còn Sống], đã được Nhà Xuất Bản Wave Books ấn hành trong tháng 9 năm 2012. Tuyển tập thơ gần đây nhất của cô, “Violet Energy Ingots” [Thỏi Năng Lượng Màu Tím], được Wave Books xuất bản vào năm 2016 và đã vào danh sách ngắn cho Giải Griffin Poetry Prize vào năm 2017.

Griffin Poetry Prize là giải thưởng thơ mở rộng của Canada. Nó được thành lập vào năm 2000 bởi một thương gia và nhà từ thiện Scott Griffin. Các giải thưởng được trao cho một nhà thơ Canada và một nhà thơ ngoại quốc là người viết bằng tiếng Anh. Nguyen đã được mời là giám khảo cho Giải Thưởng Griffin Poetry Prize năm 2020.

“A Thousand Times You Lose Your Treasure” [Một Ngàn Lần Bạn Đã Đánh Mất Bảo Vật Của Mình] là tập thơ thứ năm của cô xuất bản vào tháng 4 năm 2021 bởi Nhà Xuất Bản Wave Books.  
 
“Một Ngàn Lần Bạn Đã Đánh Mất Bảo Vật Của Mình”


NHA-THO-HOA-NGUYEN-02

Hình bìa của tuyển tập thơ “A Thousand Times You Lose Your Treasure” của nhà thơ Hoa Nguyên. (nguồn: https://www.wavepoetry.com)

 
Tập thơ “Một Ngàn Lần Bạn Đã Đánh Mất Bảo Vật Của Mình” viết về người mẹ của tác giả là bà Diệp Anh Nguyễn, là người biểu diễn xe mô tô trong đoàn xiếc toàn là phụ nữ có tên Hùng Việt. Đây là tập thơ nói về các thế lực chống lại lực hấp dẫn mà người đọc trải nghiệm sự va chạm nhau của các cõi trời và cõi người: những mặt trăng đụng vào trái đất, các bản đồ thực dân đảo ngược, những dòng sông lìa xa như những người yêu, những bài thơ tình lãng mạn gắn liền với bầu trời, và những vì sao tuôn ra bản nhạc cho đứa bé còn nằm trong bụng mẹ.

Hình ảnh trung tâm của tập thơ là người mẹ bay với chiếc xe mô tô, bay vút lên bầu trời nhưng thường nghiêng thành một quỹ đạo tròn bên trên chiếc loa qua nhiều vòng không biết mỏi mệt. 

Tập thơ được dệt với những suy tưởng về trước và sau khi “Sài Gòn Thất Thủ.” Trong những bài thơ như “Made by Dow,” “Notes on Operation Hades,” và “Napalm Notes,” nhà thơ Nguyen đã nêu ra chi tiết những ảnh hưởng tàn phá của vũ khí hóa học được sử dụng bởi Hoa Kỳ trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam.
 
 
Vài bài thơ trong “Một Ngàn Lần Bạn Đã Đánh Mất Bảo Vật Của Mình”
 
Sau đây xin dịch để giới thiệu với độc giả ba bài thơ từ tuyển tập “Một Ngàn Lần Bạn Đã Đánh Mất Bảo Vật Của Mình” của nhà thơ Hoa Nguyen, gồm bài thơ “Seeds and Crumbs” [Hạt và Mảnh], “Failed Tower Ca Dao” [Tháp Ca Dao Đã Hỏng], và “She Leads With Flower Wands” [Cô Dẫn Đường Với Chiếc Đũa Hoa].
 
Hạt Và Mảnh
 
vâng một cảnh khốn khổ nổi tiếng
“Khi tôi chỉ là một cô bé”
 
ở khía cạnh nào đó trông rất giống thiên thần
và ngược lại
 
cái gì nằm dài ở phía trước
cầu vồng
 
những cái cầu vồng
ai thèm quan tâm
 
gieo rắc bài hát
bằng chiếc bàn phím clavichord
 
tương lai không phải của chúng ta
để thấy   một cách dịu dàng
 
***
 
Tháp Ca Dao Đã Hỏng
 
bài thơ trữ tình ngang với bầu trời
bị sét đánh
trong một đoạn phim
của Frankenstein người
sợ
giông bão và sấm sét
 
huyền thoại và lịch sử quấn chặt nhau
lưu lạc trong một tòa tháp
cũng được gọi “cái miệng”
cảm giác vội vã
chỗ của mẹ
khát khao của tôi trong tiếng nói
 
nhìn mắt của tôi đỏ hồng   Tôi sống
bằng những đóa hoa độc hại   ngửi bất cứ đóa hoa nào   nhô lên sạch sẽ từ
nước đục   chèo thuyền cánh hoa
khát khao ngớ ngẩn để ca ngợi mặt trời
hiện hữu và sống trên một hòn đảo
 
***
 
Cô Dẫn Đường Với Chiếc Đũa Hoa
 
Được làm bởi người múa rối đã chết những chiếc nhẫn
tìm thấy chúng dường như   Những đóa hoa đỏ thẫm như giấy khô
 
của bông giấy dại
 
Nhiều con ma đâm cổ họng của bạn   những cái gai
trong giấc mơ nhà bếp không bị gián đoạn
 
Họ có thể thấy nó hoàn hảo để tài tiên tri của họ
 
được viên mãn   để phổi chết ngạt
để họ viết xuống những giấc mơ của mình
 
Cách của họ làm khó vượt được nên rơi qua
 
những thế giới   sáng rỡ ánh đèn trong chiếc bầu đỏ trên đường
 
Cảm ơn nhà thơ Hoa Nguyên và mong cô sẽ đoạt được quán quân của Giải  National Book Awards năm 2021.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.