Hôm nay,  

Chẳng Phải Muốn Thế

07/12/202109:20:00(Xem: 3701)

P1000318


Trời trở lạnh rồi, những ngày gần cuối năm thời gian hao hớt dần thì cái lạnh lại tăng lên. Lá vàng không còn lác đác như đầu mùa mà giờ từng đám, từng vạt đổ ào ạt, trên mặt đất dường như phủ kín bởi sắc màu lá. Những chiếc lá đủ màu sắc rực rỡ làm cho trời đất như mênh mông hơn. Lá rơi càng nhiều thì ánh sáng mặt trời càng soi sáng hơn, cả những ngóc ngách hay những vùng vốn âm u bởi cây cối

 

Những con cuốn chiếu cuộn mình tròn vo như hạt cây nằm trong hóc, trong kẽ ngách của mặt đất. Côn trùng cũng ẩn mình im bặt hết hoặc đã chết rồi, tuy nhiên trước khi chết chúng kịp đẻ trứng và ấu trùng để lưu giống mùa sau, đây là điều kỳ diệu của thiên nhiên, sự sanh diệt liên lỉ không bao giờ dứt, cái sống và chết hiện diện ở thế gian này. Côn trùng chết đi nhưng trứng và ấu trùng sẽ sanh trưởng trở lại khi trời ấm lúc mùa sang.

 

Từ trên không trung, bầy vịt trời kêu ông ổng, chúng gọi bầy bay về phương nam tránh rét. Chúng bay theo đội hình rất chỉnh tề và gần như bất di bất dịch, luôn luôn theo hình chữ V. Những nhà khoa học giải thích rằng:” Đội hình chữ V giúp chúng tiết kiệm sức lực vì tiếp thêm cộng lực từ những cú đập cánh của đồng loại”, lý thuyết là thế, đúng sai thì cũng chẳng thế nào biết, nếu bọn vịt trời hiểu tiếng người e chúng cười khẩy cái thuyết loài người về cách bay của chúng.

 

Chẳng mấy chốc là trời sang đông, tuyết bắt đầu rơi, những bông tuyết đầu mùa bay bay trong hư không rất đẹp, rất nên thơ. Những bầy chim di cư muộn màng cuối cùng rồi cũng đồng loạt bay về phương nam. Trời càng ngày càng lạnh dần thêm, tuyết ngày một nhiều hơn, có hôm tuyết đổ suốt đêm, sáng ra mặt đất trắng tinh khôi như một khung trời mới lạ vừa xuất hiện, cũng có khi cứ ngỡ mây trắng từ trên cao phủ mặt đất này. Họ nhà chim cũng có những loài không sợ rét bao giờ, tiêu biểu như bọn chim cardinal (chim hồng y). Chúng bất chấp giá rét, tuyết băng trắng càng làm nổi bật sắc lông của chúng, cái màu lông đỏ pha cam và viền đen quanh đầu. Những con chim cardinal nhảy tí tách trên cành tìm những trái cây dại còn sót, chúng cũng xúm lại quanh những cái lồng treo thức ăn mà con người biếu tặng chúng.

 

Cô bé Jessica đứng ngắm những con chim cardinal không chớp mắt, khuôn mặt thanh tú đẹp như hoa áp sát cửa sổ kiếng, hơi nóng từ lò sưởi tỏa ra làm cho hai má cô bẻ đỏ hồng lên. Jessica thì thầm:

 

– Hey! Cardinal, các cậu có lạnh không? Các cậu đi chân trần trên tuyết thật là tài. Tớ không thể nào làm thế được. Tớ ra ngoài là phải mặc áo thật dày, quấn khăn, mang ủng...nếu không thì cảm lạnh chết mất thôi!

 

Những con chim cardinal có nghe gì không mà bọn nó ngừng lanh chanh chuyền cành, nghiêng nghiêng cái đầu nhìn vào khung cửa kiếng, đôi mắt tròn xoe, đen lay láy như hạt tiêu, thỉnh thoảng lại ngúc ngoắc cái đầu… Jessica lại nói với chúng:

 

– Tuyết phủ khắp nơi, không còn côn trùng và bông cỏ, vậy các cậu có đói bụng không? Hãy lại chỗ lồng treo đấy, ba tớ có để các loại hạt khoái khẩu cho các cậu, nào là: hạt hướng dương, hạt kê, lúa mì, bắp…

 

Nói xong cô bé lấy bàn tay bé xíu xinh xinh xoa lớp hơi nước đọng trên mặt kiếng và ngón tay chỉ về hướng lồng treo thức ăn cho chim. Cả bọn dường như không nghe thấy, chúng vẫn thoăn thoắt trên cành, chợt có một con Cardinal trông to hơn đồng bọn bay tới, nó cọ cọ cái mỏ với một con chim mái, chúng kêu líu ríu rồi vỗ cánh bay làm cho những bông tuyết từ cành cây đổ xuống. Jessica lo lắng:

 

– Ba ơi, những con chim đẹp quá, chúng ở ngoài trời lạnh như thế, liệu chúng có sống nổi không?

 

 Ba cô bé ngưng đọc sách, quay nhìn với ánh mắt trìu mến:

 

–Không sao đâu con, Bọn cardinal quen với cái lạnh rồi, chúng là cư dân xứ lạnh, tổ tiên và họ hàng chúng sống ở đây đã bao đời rồi.

 

– Mình ra chơi tuyết đi ba.

 

– Ừ, con mặc thêm áo ấm vào, đội mũ che kín tai và mang găng tay nhé!

 

 Hai cha con ào ra sân, tuyết phủ trắng cả mặt đất không còn nhận ra đâu là đường đi, đâu là sân nhà, bờ bụi lùm cây cũng mất hút dưới lớp tuyết, cảnh vật đẹp vô cùng, màu trắng tinh khiết như tấm áo choàng phủ lấy mặt đất. Nhìn xa xa tất cả chỉ còn một màu trắng xóa mênh mông. Mặt đất như trở về thời nguyên sơ nào đấy, cảnh tượng như một cảnh giới nào đó chứ chẳng phải ở thế gian này. Bầy chim cardinal thấy bóng người vội vụt bay, bay lòng vòng rồi lại đậu xuống chỗ cũ. Jessica nhìn chúng và bảo:

 

– Các cậu đừng sợ, tớ không làm hại các cậu đâu, tớ chỉ đắp người tuyết thôi!

 

Cô bé nằm dài trên tuyết, quạt hai tay và hai chân tạo tành một vòng tròn trên tuyết. Hai cha con vo tuyết thành ba khối tròn, hai khối to thì làm thân, khối nhỏ hơn làm đầu người tuyết. Jessica tháo khăn quàng của mình quàng vào cổ người tuyết. Người tuyết của Jessica tuy không sắc sảo như trên bưu thiếp hay phim ảnh nhưng người tuyết này sống động như thật.Cái miệng vành trăng khuyết cười toe toét, cái mũi bằng củ cà rốt và cặp mắt là hai trái chanh. Người tuyết đứng trước sân nhà nhìn đất trời cho đến khi tuyết tan.

 

Jessica ngửa nhìn bầu trời, một con đại bàng chao liệng thành những vòng tròn trên không trung, đôi cánh soải rộng dường như không vỗ, ấy vậy mà nó không rơi xuống mới thật lạ kỳ. Đại bàng lượn những vòn tròn khi thì rộng ra khi thì khép dần lại. Cô bé kêu to:

 

– Ba, nhìn kìa! Con đại bàng bay trên trời cũng không di cư tránh rét. Con không thích nó, nó chuyên bắt nạt và ăn thịt những con thỏ, groundhog và con sóc.

 

Ba của Jessica nãy giờ quan sát những vòng chao lượn của đại bàng, nghe con gái kêu, anh quay lại:

 

– Đại bàng không sợ rét, nó là vua của loài chim, nó ăn thịt những con thú nhỏ hơn là vì đói, vì sự sống còn mà thôi!

 

– Thế sao nó không ăn bông cỏ, hạt cây, trái cây như những loài chim khác?

 

– Không thể được con ơi! Không phải nó muốn ăn thịt, chẳng phải nó muốn làm thế, mà đó là tự nhiên thế thôi!

 

– Tại sao nó bay cao tít trên trời mà không chịu đậu xuống bờ rào như bọn cardinal?

 

– Đại bàng không ăn hạt cây, bông cỏ, không đậu bờ rào như chim sẻ, chim cardinal. Đơn giản nó là đại bàng chứ không phải là sẻ hay cardinal. Chẳng phải nó muốn làm thế, nhưng vì nó là đại bàng nên nó phải bay cao. Tổ tiên nhà nó đã từng vậy, giờ nó cũng thế. Bọn chin sẻ, cardinal kia cũng không ăn thịt, không bay cao mà chỉ đậu bờ rào, chỉ vì bọn chúng không phải là đại bàng.

 

 Con bé không thắc mắc gì nữa, mãi chạy loanh quanh chơi tuyết. Bầu trời xanh thẳm, mùa hạ cũng trong xanh nhưng bây giờ thì còn thăm thẳm hơn, cái màu xanh như thông đến tận cùng vũ trụ. Mặt đất trắng, màu trắng tinh khiết mở rộng ra khắp mười phương. Khi tuyết đã phủ kín mặt đất thì không còn giới tuyến, biên giới, lằn ranh nào nữa, tất cả xóa nhòa và liên kết thành một màn trắng bất tận. Trời xanh bao la, đất rộng mênh mông, sơn hà đại địa trường cửu tháng năm, đời người hạn hữu trong vòng trăm năm. Thế mà cái tham của con người ghê gớm và mê muội biết bao. Con người tranh giành mưu chiếm đoạt cả đất trời, đem cái hữu hạn nhỏ nhoi để chiếm hữu cái vô hạn độ quả tthật không còn gì vô minh hơn, cái vô minh cũng vô hạn độ như vũ trụ này. Có những kẻ độc tài nắm quyền lực trong tay muốn biến đồng loại thành gà vịt và thế giới này thành chuồng trại, nói sao hết được mức độ tàn bạo, hôn ám của kẻ cường quyền, cũng chẳng làm sao nói hết nỗi thống khổ đau đớn của những nạn nhân dưới dự cai trị độc tài. Những kẻ độc tài thường tự sánh mình là rồng, hổ, đại bàng… ý muốn tỏ cái khí độ hơn người, tiếc thay rồng hay đại bàng đâu có cái tâm tham lam muốn chiếm đoạt sở hữu như thế. Cái oai phong uy lực của đại bàng vốn tự nhiên là thế, chẳng phải nó muốn thế hay làm màu như thế. Những con đại bàng ở sườn non, đỉnh núi, ngọn cây… chúng làm tổ trên vách đá cheo leo hoặc những cành cao không có bất cứ loài thú nào hay con người có thể mon men tới được. Đại bàng không ăn bông cỏ, hạt cây hay thực phẩm nhân tạo của con người. Đại bàng tự do bay lượn phóng khoáng giữa đất trời chứ chẳng phải vui với cái lồng sơn son thếp vàng, càng xa lạ với sợi xích vàng, coi khinh chuồng trại mà lũ gà vịt tranh nhau chui vào. Đại bàng tự do chao lượng trên thinh không, cái tự do tuyệt vời mà bao kẻ hằng mơ, tuy rằng cái tự do ấy vẫn còn hạn hữu bởi kiếp sống loài chim, bởi phúc phần nhân qủa chỉ bấy nhiêu đó thôi!

 

Dòng tư tưởng miên man chợt bị cắt ngang khi cô bé cất tiếng hỏi:

 

– Sao những con chim cardinal không bay lên trời cao như đại bàng hở ba?

 

– Cardinal không thể bay cao chao lượn như đại bàng được! Bọn chúng không thể làm điều cái điều mà đại bàng làm. Đại bàng cũng không thể đậu ở rào dậu, ăn bông cỏ như cardinal, chẳng phải chúng muốn thế mà tự nhiên sinh ra đã là thế!

 

– Những con chim cardinal không bay di trú, thế chúng có phải hùng dũng như đại bàng không vậy ba?

 

– Không, không phải hùng dũng như đại bàng, chẳng qua là thói quen tập quán của chúng vậy thôi!

 

Dường như chơi đã thỏa thích, cô bé kêu gọi:

 

– Vô nhà thôi ba ơi! Lạnh quá rồi, hai bàn tay con đỏ cóng.

 

Cô bé kéo tay ba đi vô nhà, lên thềm bậc cấp còn quay lại chào những chú cardinal trên cành cây trước hiên nhà:

 

– Tớ vào nhà đây, tớ không thể sống ngoài trời tuyết như các cậu được, các cậu vui chơi tuyết khi nào đói thì hãy đến cái lồng treo thức ăn nhé! Ở đấy ba tớ có đủ bông cỏ và các loại hạt cho các cậu.

 

Những con chim cardinal có nghe lời cô bé hay không mà sao cứ lích rích trên cành, nhảy lách tách trên tuyết, chúng bới những chỗ còn có cộng cỏ ló trên mặt tuyết để tìm thức ăn. Con đại bàng vẫn không ngừng chao lượn trên bầu trời, không biết nó đã vẽ bao nhiêu vòng tròn vô hình trong hư không, từ trên cao xanh ấy, mắt nó theo dõi tất cả những cử động dù là nhỏ nhất của bọn thỏ, sóc, groundhog trên mặt đất.

 

Bên trong ngôi nhà thật ấm cúng, dù là ngôi nhà cũ kỹ và rất nhỏ, bếp sưởi với ngọn lửa giả và khúc củi giả tí tách âm thanh giả, tất cả đều bằng kim loại và điện, bởi vậy không có mùi gỗ thông, không có khói mụi và dĩ nhiên cũng không cần ống khói và cả ông thợ nạo ống khói với mặt mày lem luốc. Tuy đồ giả nhưng hơi ấm vẫn tuyệt vời làm sao. Jessica nằm trên thảm trước lò sưởi hỏi:

 

– Nhà mình không có ống khói, vậy làm sao ông già Noel vào được? Cả cỗ xe trượt tuyết và những con tuần lộc sẽ vào bằng lối nào?

 

– Con đừng lo lắng, ông già Noel biết cách vào.

 

– Ông gìa Noel to thế, làm sao chui lọt ống khói được?

 

– Thế mà ông ấy chui lọt mới tài chứ! Ba thấy con còn giỏi hơn, ông già Noel với cỗ xe tuần lộc và cái bao đỏ chứa quà to thế, vậy mà có được trong cái đầu be bé xinh xinh của con.

 

Con bé cười nắc nẻ, tiếng cười của con trẻ sao mà trong trẻo, thơ ngây và thánh thiện đến như thế. Tiếng cười làm vui nhộn cả gian phòng. Con bé nói mà không dứt tiếng cười:

 

– Ông già Noel làm sao mà ở trong đầu của con được?

 

– Thế sao ông ấy biết món quà con thích để mà bỏ vào chiếc ủng treo ở đầu giường?

 

– Con hổng biết.

 

Hai cha con đối đáp một cách trìu mến và vui vẻ trước lò sưởi bên bậu cửa, một con sóc nâu nhảy lên cửa sổ, mắt láo liêng nhìn qua lớp kiếng. Jessica nhào tới gõ nhè nhẹ lên kiếng:

 

– Này, cậu phá phách lắm đấy nhé! bao nhiêu món đồ chơi tớ để trên bậu cửa bị cậu và các bạn cậu làm đổ cả. Các cậu còn đào bới làm hư nát mấy luống hoa ba tớ trồng. Tớ thích các cậu mà các cậu làm cho tớ bực mình.

 

Con sóc nâu dáo dác đôi mắt, miệng nhóp nhép măm măm liên hồi, hai chân trước máy máy không ngừng nghỉ. Nó không sợ Jessica, nó cứ nhìn cô bé nói mà không hề tỏ ra sợ sệt, có lẽ bản năng sinh tồn cho nó biết không có gì nguy hiểm. Jessica nhìn nó, lại gõ gõ vào lớp kiếng:

 

– Cậu coi chừng đấy! Đại bàng đang chao lượn trên cao, nó thấy cậu là cậu tiêu đời. Rồi còn bọn mèo hoang nữa kìa, chúng nó là những tên trộm vặt và lười biếng, chúng nó cũng nguy hiểm cho cậu đấy!

 

Con bé Jessica nói chuyện với sóc nâu một lát, sóc nâu nhảy phóc đi và chui tọt vào bộng cây trước hiên nhà. Jessica dường như chơi đã thỏa thích và thấm mệt nên lăn ra ngủ thiếp bên cạnh lò sưởi.   Ngoài khung cửa những bông tuyết bay phất phơ trắng xóa, trong giấc mơ Jessica thấy hai mẹ con nữ thần Demeter và Persephone.(*) Mỗi khi Perserphone về âm phủ với Hades thì mặt đất trở nên đìu hiu ảm đạm, băng giá suốt sáu tháng mùa đông, ngoài đồng không còn một cộng cỏ bông hoa nào. Bởi vì lúc bấy giờ nữ thần Demeter thương nhớ con gái nên chểnh mảng trách vụ của mình. Sáu tháng sau đó, khi nữ thần Peserphone lại trở về dương gian, bấy giờ nắng vàng trời xanh, cây lá biếc, hoa cỏ tươi nhuận, mùa màng bội thu. Hai mẹ con nữ thần Demeter và Pesephone mang lại sự lụi tàn, ảm đạm thê lương và cả chết chóc nhưng cũng là hiện thân cửa sự sống, sự sung túc, sự sanh sôi nảy nở, sự tăng trưởng hoan ca… Sanh và diệt vốn chỉ là một nhưng lại hóa hai, những tưởng là hai nhưng thật sự vẫn là một, cứ như thế hai mẹ con nữ thần đến và đi với thế gian này.

 

Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng Thành, 11/21)

 

(*) Thần thoại Hy Lạp: Nữ thần Persephone là con gái của Demeter và Zeus. Zeus đem con gái gả cho thần Hades mà không cho Demeter biết. Con gái về âm phủ, bà buồn bã làm cho mùa màng tiêu điều, băng giá khắp nơi. Zeus phải ra lệnh Hades để Persephone về lại với mẹ, ngặt nỗi Persephone đã ăn ở dưới âm phủ, vì thế nàng chỉ có thể về dương gian sáu tháng mà thôi. Từ đó mỗi khi nàng về dương gian thì sự sống hồi sinh, mùa màng tăng trưởng, còn sáu tháng nàng về âm phủ thì trần gian vào mùa lạnh lẽo tàn đông.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.