Hôm nay,  

Cung Tích Biền Điên Tỉnh Giữa “Một Thời Nên Vắng Mặt”

16/12/202120:13:00(Xem: 4832)

Pic 9 sách CTBTôi có một kho tàng sống qua mấy thời kỳ. Chỗ giáp ranh của thực hư, chính tà. Nửa tỉnh nửa điên...”  – Cung Tích Biền.



Trong tiết đông giá rét, mọi người đang chờ đón Giáng Sinh năm 2021, Quận Cam cũng hân hoan chào mừng một đứa con tinh thần mới ra đời. Ấp ủ và cưu mang tác phẩm tinh thần này suốt thời gian sống tại hải ngoại, nhà văn Cung Tích Biền cuối cùng đã giới thiệu đến các độc giả, tác phẩm "Một thời nên vắng mặt" của mình, một chiều cuối năm tại Coffee Factory.

Gần 60 bạn hữu thân quen của ông đến dự, ngồi chật kín quán cà phê, phả vào không gian thơ mộng một bầu không khí thân mật và ấm cúng. Đây là lần ra mắt sách thứ nhì sau lần ra mắt trước cách đây 2 tháng. Lần trước ông giới thiệu 5 cuốn sách và lần này là cuốn Tân Truyện được viết trong 5 năm ông sống tại Hoa Kỳ. 

 

Hiện diện trong buổi RMS có nhiều văn nghệ sĩ như: Trịnh Y Thư, Tô Đăng Khoa, Lê Lạc Giao, Thuận Huỳnh, Trương Đình Uyên, Nguyễn Đình Trí, Phùng Minh Tiến, Vũ Hoàng Thư, Nguyễn Thị Khánh Minh, Thanh Lương, Thu Vàng, Thân Trọng Mẫn, Đặng Thơ Thơ, Hồ Như, Nguyễn Đình Thuần, Đặng Phú Phong, Lê Giang Trần, Cao Bá Minh, Nina Hòa Bình, Phan Tấn Hải, Nguyễn Thanh Huy, Phạm Phú Minh, Thành Tôn, ÔB Mai Tất Đắc, Vương Trùng Dương, Lê Phước Bốn, Đinh Quang Anh Thái, Đinh Xuân Quân…


Trong phần giới thiệu tác giả, nhà văn Tô Đăng Khoa giữ vai trò MC đã mời Nhà văn Phạm Xuân Đài (Phạm Phú Minh) lên phát biểu.  Ông chia sẻ với mọi người về mối thâm giao ông có cùng tác giả. "Thân phụ của Phạm Xuân Đài là thầy giáo của Cung Tích Biền từ thời cắp sách. Ông cụ kể rằng Cung Tích Biền đã lộ tài văn chương từ rất sớm. Do đó CTB và PXĐ trên phương diện tinh thần là hai anh em. Ông nhớ lại thời đó nhà văn Cung Tích Biền đã nổi tiếng từ thập niên 1960. Lúc ấy báo chí nở rộ. Một trong số các nhà văn ăn khách viết truyện dài cho các báo là Cung Tích Biền. Mỗi buổi sáng CTB vào quán cà phê ngồi viết phơi-ơ-tông  (feuilleton) truyện dài cho 5,6 tờ nhật báo. Ông cũng có vài nhận xét về  cách viết của CTB đổi khác theo mỗi thời kỳ. Nhất là cuốn Tân Truyện này, giống như một cái gì để lâu bị dồn nén, giờ có dịp bột phát. Văn phong nó dễ sợ lắm, khiến người đọc phải suy nghĩ khi đọc, vì nó quá súc tích mà lại cô đọng từng câu, từng chữ. Sự uẩn ức nung nấu trong lòng, tạo nên một văn phong CTB mới và khác."

 

Kế đó, Nhà báo Vương Trùng Dương cũng lên kể về những kỷ niệm xưa với Cung Tích Biền. Ngày đó ông là huynh trưởng, CTB là bạn của chị ông và tất cả cùng sinh hoạt trong Gia Đình Phật Tử. Hai người là đồng hương cùng quê ở Quảng Nam.

 

Sau cùng Nhà văn CTB đã cảm ơn các bằng hữu bấy lâu thương mến và giúp đỡ ông rất nhiều trong thời gian qua. Ông cũng không quên cám ơn người vợ yêu thương, Hoàng Thị Kim, đã thúc đẩy và chăm lo tất cả mọi thứ cho ông. Nhờ bà mà các tác phẩm của ông mới có mặt cùng độc giả trong khi ông chỉ biết viết. Bà cũng là tác giả của bức tranh bìa in trên Tân Truyện "Một thời nên vắng mặt". Ông cũng kể sơ về sự ngạc nhiên của ông với tục "Ra mắt sách" ở hải ngoại. Nó giống như người ta ăn thôi nôi của một đứa bé vậy. Ở Việt Nam, ông không được in sách đành in chui và không xin giấy phép của nhà nước vì nếu in họ sẽ cắt bỏ hết mà còn bị bắt nữa. Viết ở Việt Nam cực kỳ khó, ông phải thành lập nhà xuất bản Một Mình, có nghĩa là một mình, mình làm tất cả, và mỗi lần chỉ in được 40 cuốn. Ông nhấn mạnh thực ra mục đích hôm nay ngoài ra mắt sách, ông mong bạn bè được họp mặt, trò chuyện vui vầy với nhau là chính. Quả vậy chiều hôm ấy buổi RMS kéo dài đến 8, 9 giờ tối với phần trò chuyện, cùng đàn hát cho nhau nghe thật vui và sôi động.

 

Sau đây là phần trích dẫn của các nhà văn, nhà phê bình đã đọc và nhận xét khi đọc các tác phẩm của nhà văn Cung Tích Biền.

 

Nhà văn Huỳnh Ngọc Chiến đã tâm sự trên trang mạng của mình như sau:

Chính sự lao động thầm lặng và những suy tư sâu sắc của nhà văn Cung Tích Biền về lịch sử, về thời đại đã khiến tôi thêm ngạc nhiên và trân trọng. Các truyện ngắn của anh như gắn liền với cuộc sống nổi chìm cùng bao nỗi nhục vinh của cái xã hội mà anh đã sinh ra, lớn lên, rồi trôi nổi theo vận mệnh của lịch sử đầy biến động. Tôi vẫn thích lối văn kể chuyện kiệm lời, pha lẫn chút bình thản đến lạnh lùng, hài hước mà cay đắng, hờ hững mà quặn đau, trong các truyện ngắn của anh. Tôi muốn đọc các truyện ngắn của anh, từ tác phẩm đầu tay cho đến hôm nay, như một dấu ấn để tôi nhìn lại dòng chảy của một thời đại, mà trong đó tôi cũng đã sống, đã trăn trở. Đọc lại truyện ngắn của Cung Tích Biền, tôi thêm hiểu rằng truyện ngắn của anh không phải loại truyện chỉ đọc một lần. Nó mang tham vọng muốn chuyển tải những suy tư thầm lặng, những trăn trở của anh về lịch sử, về đất nước, về văn hóa qua những lớp vỏ ngôn ngữ đa tầng đa nghĩa mang tính dụ ngôn.


Nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh đã nhận xét về CTB khi đọc ông.

 

– Trong các sáng tác khi có thể và không nhiều, ngọn bút của ông mang nặng tính nhân bản và không pha hận thù, nếu có chăng là suy tư, hài hước tình đời, là nhắc nhở để tránh, để khỏi... Dùng ẩn dụ, ví von xa xôi, xa xưa và không gian khác, lạ lẫm thay vì hiện thực dễ dàng thấy sao nói vậy. Đề tài thời nhiễu loạn, “gió chướng”, do đó không hề thiếu, quan điểm và phê phán ông cũng không thiếu, nhưng biến thành con-chữ và đến được với người đọc là vấn nạn mà một nhà văn có bản lãnh như Cung Tích Biển không thể không đắn đo. Đó có lẽ là lý do khiến những sáng tác hiếm hoi của ông sau 1975 khi còn ở lại trong nước khá cô đọng, kiệm lời, không thừa chữ, không phải lý lẽ cho ra lẽ, nhưng từ khi ông định cư ở Hoa-Kỳ, hết “kiểm duyệt”, hết phải “sống trong phòng đợi”, thì ngòi bút ông như ngựa mất cương, tha thiết hơn, dài hơi hơn và phê phán triệt để hơn.

 

Nhà thơ Trịnh Y Thư phân tích cặn kẽ văn phong CTB khi đọc cuốn "Xứ động vật".


– Đọc Xứ động vật của nhà văn Cung Tích Biền, người đọc không thể không bàng hoàng, kinh động vì những trang viết khốc liệt như được viết từ nỗi đau xé ruột và lòng phẫn nộ tràn ứ, đầy dâng người đọc không hề tìm thấy một dấu vết hạnh phúc nhân sinh hoặc một nụ cười vui tươi nào, mà chỉ bắt gặp toàn những đắng cay tủi nhục và đau đớn ê chề. Bằng giọng văn trần trụi cảm xúc, phối hợp với những biện pháp nghịch dị trong văn chương, nhà văn đã rạch toác những vết ung nhọt khiếp hãi của xã hội đương đại trên đất nước quê hương ông từ thời hậu chiến cho đến tận bây giờ sau gần nửa thế kỉ thống nhất. Ông đã không ngần ngại gọi đấy là Xứ động vật hay một xứ sở Toàn-Chuồng. Trong mắt ông, cuộc sống lầm than, những sự việc phi lí, những cảnh huống oan khiên, những định mệnh oan nghiệt, những con người sống thừa, tất cả là kiếp sống con người hôm nay trên dải đất tang thương đó. Thật ra có phóng lớn, khuếch đại thế nào cũng chẳng diễn/miêu tả nỗi cái tình trạng của hoảng loạn, mạt thế, trong xã hội Việt Nam hiện nay. Nó nằm trên, và ngoài sức tưởng tượng lẫn hư cấu, trước bàn viết của một nhà văn. Việt Nam hôm nay, một xã hội tan rã là chưa đúng nghĩa, phải là một dân tộc tự hủy diệt.


Sách đã có bán trên BARNES & NOBLE. Ấn phí: US$20.00.

Có thể vào trang: https://www.barnesandnoble.com/

Rồi gõ chữ "cung tich bien" sẽ ra các tác phẩm của Cung Tích Biền.


– Trịnh Thanh Thủy

 

Hình ảnh trong buổi RMS (Ảnh Trịnh Thanh Thủy):



pic 1 CTB
Nhà văn Cung Tích Biền.

 

pic 2 ÔB CTB copy

ÔB Cung Tích Biền.



pic 3

Từ trái - (đứng): Thuận Huỳnh, Nguyễn Đình Thuần; ngồi: Đinh Quang Anh Thái,
Đặng Phú Phong, Thành Tôn.

pic 4
Từ trái: Thanh Huy, Phan Tấn Hải, ĐX Quang, Phùng Minh Tiến, Cindy Châu.



Pic 5 (2)

Từ trái: Tô Đăng Khoa, Trịnh Y Thư, Nguyễn Thị Khánh Minh, Nguyễn Thị Thanh Lương, Bà Vũ Hoàng Thư.

pic 6

Vương Trùng Dương, Hoàng Thị Kim, Đặng Thơ Thơ, Cung Tích Biền.

pic 7

Thân Trọng Mẫn, Phạm Quốc Bảo, ÔB Mai Tất Đắc.



pic 8 (2)
Phan Tấn Hải, Phạm Phú Minh, ĐX Quang, TNThiện.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.