Hôm nay,  

Sáng Lên, Những Quả Cầu!

19/12/202117:28:00(Xem: 3799)

 Truyện ngắn

h01
Sáng lên! Những quả cầu (Hình: Internet).

Như một trận sóng thần, ào ạt kéo đến rồi rút đi. Không biết bao giờ lại kéo vào nữa. Chỉ thấy những gì để lại thật khôn lường. Nhưng con người vốn có bản năng sinh tồn nên đứng dậy rất nhanh. Họ hối hả chạy đua với dòng sống mới. Ai cũng vui vì được sống. Trận dịch, và những gì kèm theo, là như thế.


Ngoại trừ những em nhỏ, quá nhỏ, như bé Hoan. Em chỉ mới bốn tuổi, vừa qua mấy lớp mẫu giáo. Em không biết gì hết. Ai bảo làm sao thì em làm vậy. Em biết khóc khi buồn, và biết cười khi có ai bày trò chơi thú vị. Nhưng có một điều em biết nhiều hơn ai khác, là từ nay em không thấy ba và má của em về nhà nữa! Và đó là em nhỏ đầu tiên mà Nhiên gặp, khi tiếp nhận công việc mới của mình.

 

Ai khiến xui chi, Nhiên về Việt Nam khi dịch chưa đến Mỹ. Khi dịch bùng mạnh ở Mỹ, Nhiên ở lại Việt Nam. Đến khi Việt Nam bị dịch hoành hành, Nhiên chọn ở lại. Cũng như những người bạn trong cùng hội thiện nguyện của mình, Nhiên chạy vào những vùng mà từ đó người ta chạy ra. Lần này, Nhiên phụ với Chị Cả nhận làm “mẹ” của đàn con mười đứa, tuổi từ bốn đến mười hai. Hoan là bé nhỏ nhất.

 

Em mở to đôi mắt nhìn Nhiên. Đôi mắt long lanh, ngây thơ nhưng đầy vẻ chịu đựng. Chị Cả nói bé Hoan là đứa trẻ ít nói nhất trong số các em được nhận về. Ngay sau khi ba má em mất, cuộc sống của em đã bị đảo lộn hoàn toàn. Em không còn người thân nào ở thành phố này.


Nhìn bé Hoan, Nhiên nghe lòng quặn thắt. Kỷ niệm những ngày sống trong viện cô nhi trở về. Nhưng Trời đã ban cho Nhiên một bà mẹ quý. Bà vào viện cô nhi, ôm từng đứa, từng đứa về nhà. Đám con mười đứa của bà, trắng có, đen có, vàng có. Nhà của bà là một hợp chủng quốc, bà nói vui như vậy. Những đứa con của bà lớn lên dần, được đi học đàng hoàng, lại còn được tiếp nhận kho kiến thức của bà mẹ-nhà giáo. Bây giờ bà đã mất, Chị Cả, một trong những con nuôi của bà, tiếp nối tấm gương của mẹ, mở một mái nhà tình thương và nhận nuôi một số cô nhi trong đại dịch.

 

Và như thế, dòng đời, cứ như theo một kịch bản đã được viết sẵn!

 

*

 

“Em bé, cô tên là Nhiên, còn bé?”

 

Bé Hoan lí nhí đáp:

 

“Con tên là Hoan.”

 

Rồi bé cúi đầu xuống, im lặng, nửa gương mặt giấu sau chiếc khẩu trang, chỉ nhìn thấy ánh mắt lẩn trốn. Nhiên gợi chuyện:

 

“Bé với cô cùng chơi trò chơi lớp học nhé!”

 

Đôi mắt hơi liếc nhìn lên, tỏ vẻ muốn hỏi. Nhiên tiếp luôn:

 

“Bé muốn làm cô giáo hay làm học trò nào?”

 

Lần này thì ánh mắt hơi vui lên một chút. Chắc bé thấy câu hỏi của Nhiên hơi lạ. Lại lặng im, không trả lời. Nhiên đề nghị luôn:

 

“Bé Hoan làm cô giáo đi! Cô thì làm học trò. Cô thích làm học trò lắm!”

Ánh mắt sáng lên. Nhiên gọi mấy em khác đến cùng làm học trò. Hình như trò chơi này thời nào, ở đâu, các bạn nhỏ cũng đã từng có lần chơi. Nhưng lớp học này thì có điểm khác thường, học trò không có bàn ghế ngay ngắn, mà mỗi trò ngồi một góc, cách xa nhau, mang khẩu trang. Và cô giáo nhỏ nhít của lớp học, bắt đầu tiếng nói ngập ngừng:

 

“Chào các bạn.”

 

Chao ôi, thật là lịch sự! Cả lớp chào lại:

 

“Chào cô ạ!”

 

Và như vậy, giờ học diễn ra. Cô giáo Hoan xin một xấp giấy, phát cho mỗi trò một tờ. Cả lớp chờ đợi cô giáo ra lệnh. Cô giáo hơi suy nghĩ, rồi nói:

 

“Bạn nào muốn làm gì cũng được.”

 

Cả lớp “ồ” lên, thích thú. Cô giáo nói tiếp:

 

“Nhưng bạn nào vẽ hình thì sẽ được nhiều điểm.”

 

Chẳng là cô giáo chưa học lên lớp Một!

 

Nhiên chọn vẽ. Từ thuở còn bé, tuy không xuất sắc với môn Vẽ, nhưng Nhiên lại rất thích vẽ, như một cách giải trí. Nhà mẹ nuôi có đầy đủ bút màu, thuốc vẽ, giấy vẽ các loại, nên các con của bà cũng tạm thấy thoải mái. Lớn lên, Nhiên không có thì giờ để vẽ tranh, nhưng khi buồn thì cũng nguệch ngoạc vài nét, như một cách để bày tỏ điều gì đó với chính mình. Nhiên qua Mỹ, được đi nhiều nơi có phong cảnh đẹp, cũng phác họa vài nét khi có cảm xúc với thiên nhiên. Rồi như một duyên nợ, khi tốt nghiệp đại học, Nhiên đã chọn đi làm việc thiện nguyện. Môi trường làm việc khiến Nhiên cảm nhận được nhiều nét đặc biệt của cuộc sống con người. Nhưng không có thì giờ để vẽ nữa. Mỗi cảm xúc đều được ghi vào tâm khảm, bằng hai con mắt. Một em bé Somalia ốm trơ xương. Một bà mẹ Kenya đau đớn trong khi sinh con. Một gia đình Haiti chia nhau bữa cơm hẩm. Một người lính Afghanistan sau chiến tranh, trở về nhà trên chân nạng. Một di dân Trung Mỹ bơi qua dòng sông chảy xiết, tìm chân trời mới…

 

Nhiên xin “cô giáo Hoan” cho chọn vẽ, thế mà lại ngồi thừ ra trước trang giấy trắng. Coi vậy mà khó dữ! Nhìn quanh, thấy có vài bạn nhỏ đang cúi mình vẽ gần xong. Có bạn vẽ cây, lá, bông hoa. Có bạn vẽ ngôi nhà. Có bạn vẽ người. Ôi, đây là những bạn nhỏ mồ côi! Tim Nhiên nhói lên. Bỗng Nhiên nhớ đến một bức ảnh, các bạn của Nhiên truyền nhau từ internet: Một bé gái nhỏ tại Iraq vẽ hình mẹ mình lên nền nhà trong cô nhi viện của bé, sau đó cẩn thận cởi giày, nằm xuống trên ngực mẹ rồi thiếp đi… Bức ảnh, vâng, bức ảnh, được chia sẻ khắp nơi, nhanh và rộng như một cơn bão.


Cuối cùng thì “trò Nhiên” cũng nộp bài. Không thể nộp giấy trắng, Nhiên vẽ lên góc trên bên trái của trang giấy, một trái tim nhỏ xíu. “Cô giáo Hoan” hơi có vẻ cười nhẹ qua đôi mắt khi nhìn thấy bức tranh. Cô giáo thu bài của cả lớp.

 

h02
Em bé Iraq (Hình: Internet).

Buổi trưa, căn nhà nóng, ngột, tuy đã được gắn vài cây quạt máy. Sài Gòn như không còn mùa đông! Thật vậy sao? Nếu so sánh với cùng thời gian này vài mươi năm trước, thì quả đúng như vậy. Thuở đó, Nhiên là cô học trò nhỏ, những ngày mùa đông còn co ro trong chiếc áo ấm mỗi buổi sáng đến trường, đêm ngủ còn đắp chăn đến tận cổ. Thật ra thì không lạnh nhiều lắm đâu, nhưng cũng là món quà tặng cuối năm Trời cho người của thành phố này, và cũng là dịp để người ta mặc áo ấm, gọi là se sua một chút. Còn bây giờ, với lượng người và nhà cửa ngày một nhiều, cây cối ngày một thưa đi vì bị đốn bỏ, Sài Gòn không có nhiều không khí để thở, mùa đông như cũng không còn.

 

Đã từng đi đây đi đó, nếm trải nhiều loại khí hậu khác nhau, Nhiên vẫn thương cái lạnh nhè nhẹ của mùa đông Sài Gòn xưa. Bây giờ thì mùa nào người ta cũng phải ra đường với mũ bảo hộ, kính đeo mắt, khẩu trang và áo khoác ngoài kín mít. Thời dịch bệnh, những vật dụng này lại càng kiên cố hơn, cộng thêm tấm chắn trong suốt che mặt. Thấy thương người dân của mình quá!

 

Tội nghiệp Chị Cả, chị lo các bé nóng không ngủ được, cứ đi thăm chừng hoài. Chị tập cho các bé theo nề nếp như một lớp học bán trú, buổi trưa phải có một giấc ngủ ngắn. Nhưng cái lớp học này phải gọi là lớp học nội trú rồi! Các học trò chỉ còn đây là nhà.

 

Nhiên cũng tìm cho mình một góc, tự bắt mình lim dim như thể làm gương cho các bé. Tâm trí lan man nghĩ đến những vùng đất xa xôi. Rồi cũng nhớ về xứ Mỹ. Mình đã không về Mỹ gần hai năm rồi! Thấy nhớ. Giờ này bên Mỹ cũng khá rộn ràng mùa lễ cuối năm. Năm ngoái dịch bùng nặng, người ta hầu như bỏ qua hết chuyện vui chơi. Năm nay có vaccine rồi, “chiến trận” lắng xuống phần nào, mọi sinh hoạt được phục hồi. Đọc tin, thấy người ta than năm nay khan hiếm các Ông Già Noel. Chẳng là Ông Già Noel thường có mặt ở các trung tâm mua sắm, trên những đường phố, cho trẻ con đến làm quen và chụp hình.

 

“Đóng vai Ông Già Noel” trở thành một cái nghề. Tuy năm nay mức lương được trả cao hơn bình thường, nhưng có nhiều Ông Già Noel sợ bị lây bệnh nên đã bỏ nghề.

 

Ngày xưa trẻ con tin có Ông Già Noel do không bao giờ gặp được ông, chỉ thấy ông qua những tấm thiệp, truyện tranh hay phim ảnh. Trong mỗi gia đình, cha hoặc mẹ, thậm chí một anh hay chị, làm Ông Già Noel đi phát quà, mà thường thì bí mật lắm, chẳng cho ai thấy. Mà không phải gia đình nào cũng có Ông Già Noel. Với nhiều gia đình Việt Nam, đó là một xa xí phẩm!

 

Có một ai đó đang khe khẽ ngồi dậy. Nhiên hé mắt nhìn. Một cái bóng nhỏ xíu. Là bé Hoan! Nhiên định tới giúp bé, nhưng thôi, vì thấy bé đang mở trang giấy để trước mặt. Với một cây bút chì, bé vẽ. Nhiên mỉm cười thú vị. Hóa ra cô bé cũng thích vẽ, giống như mình ngày xưa. Vẽ xong, bé Hoan rón rén, thật nhẹ nhàng, đặt tờ giấy xuống bên dưới xấp bài đã thu của lớp.

 

*

 

Hôm nay lớp học trở lại, với Nhiên là cô giáo. Các bé có những môn học thật sự. Nhưng đây chỉ là trường lớp tạm, mà các bé lại ở những lứa tuổi khác nhau. Các bé cần được đến trường thật, học với thầy cô thật. Dịch bệnh khiến môi trường học tập thu lại thành thế giới ảo, càng khó khăn hơn nhiều với hoàn cảnh của các bé.

 

Nhiên cầm xấp bài tập hôm qua, hỏi bé Hoan:

 

“Cô giáo có chấm điểm chưa?”

 

Bé Hoan lắc đầu, chỉ vào Nhiên. Nhiên bật cười:

 

“Vậy hôm nay cô được làm cô giáo, cô sẽ chấm điểm cho các con nhé!’

 

Lướt nhanh các tờ bên trên, Nhiên nói:

 

“Thật ra mình chỉ là lớp học làm quen thôi, cô xin chấm bài nào cũng mười điểm, nhé các con! Các con giỏi lắm, viết chữ ngay ngắn, vẽ tranh đẹp. Cô khen tất cả các con. Các con bây giờ là anh chị em trong cùng một mái nhà. Cô mong rằng các con sẽ thương yêu nhau, giúp đỡ nhau.”

 

Các bé “dạ” rân, tỏ vẻ vui mừng. Nhiên xem từng bài, và đến tờ giấy nằm dưới cùng, đúng như Nhiên nghĩ, đó là một bức vẽ. Tờ giấy này chính là bức vẽ Nhiên vẽ trái tim nhỏ xíu ở góc trên bên trái. Phần còn trống đã được lấp đầy bằng nét vẽ non nớt, nhưng rõ ràng. Là hai cái bình, trong mỗi bình bé vẽ một người đứng, rất đơn giản, nhưng nhìn là biết bé muốn vẽ ai. Nhiên lặng người, nghe quặn thắt tận tâm can.

 

Trưa, Nhiên trốn vào phòng với Chị Cả. Nhiên kể cho Chị Cả nghe rồi khóc nức nở, khóc đau đớn. Nhiên tưởng như thấy lại hình ảnh của chính mình ngày xưa. Nhưng ngày xưa, con bé Nhiên không biết diễn tả tâm trạng của mình như vậy. Nhiên lớn lên, ray rứt với nỗi buồn không biết mặt cha, còn mẹ thì mất trong loạn lạc. Nhiên tưởng chỉ có chiến tranh là kẻ hủy diệt ghê gớm nhất trên đời. Nhưng bây giờ, trận đại dịch như sóng thần quét qua, đã biến hàng ngàn trẻ em Việt Nam và hàng triệu trẻ em trên thế giới trở thành trẻ mồ côi trong chớp mắt.

 

Thì ra bé Hoan, cô bé chỉ mới bốn tuổi, lại là người bước ra nhận di hài của cha mẹ bé!

 

*

 

Sài Gòn nay như không có mùa đông. Nhưng Chị Cả và Nhiên muốn mang mùa đông trở về. Là một mùa đông ấm áp cho các bé. Hai chị em khệ nệ bưng cây thông xin được từ Nhà Thờ, đặt ở góc phòng học. Là cây thông giả, không sợ gây dị ứng cho các bé. Các bé được gọi xúm vào giúp trang trí cho cây thông. Bên cạnh những sợi gòn dùng làm tuyết, Nhiên cho treo những quả cầu đủ màu. Các bé ngoan sẽ được Ông Già Noel cho quà. Mà chắc chắn là tất cả các bé đều ngoan. Các bé vui, nói chuyện rộn ràng.

 

Nhiên kéo bé Hoan lại gần, hỏi nhỏ:

 

“Con có vui không?’

 

Bé Hoan gật đầu nhè nhẹ. Nhiên chỉ lên hai quả cầu, nói:

 

“Ba ở trong một quả cầu, Má ở trong một quả cầu. Đó là những ngôi sao sáng, như sao trên trời vậy, con thấy không?”

 

Bé Hoan gật đầu, ánh mắt tươi lên. Chị Cả nói lớn:

 

“Nào, trang trí đã xong. Mình thắp đèn lên nhé các con!”

 

Các bé đồng loạt đếm một, hai, ba. Đèn đã được thắp lên! Những quả cầu rực sáng, chớp tắt, lấp lánh như những vì sao.

 

– Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

(12/2021)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.