Hôm nay,  

Nhà Văn Nữ Pháp Gốc Việt – Linda Lê

09/01/202208:31:00(Xem: 4729)

Chân dung văn học

 

Linda Le
Nhà văn Linda Lê


Có phải chăng quá sớm để viết về cuộc đời và tác phẩm của Linda Lê, một nhà văn nữ của Pháp gốc Việt. Linda Lê đang ở tuổi ngoài ngũ tuần, đang trong dòng triều cương của sáng tác, còn nhiều chuyển hóa, còn nhiều bước đi mới khám phá chính mình và thế giới.

 

Báo Libération của Pháp có bài phác họa chân dung tư tưởng của nhà văn Linda Lê, tác giả của nhiều tiểu thuyết viết bằng tiếng Pháp và nhận được nhiều giải văn chương có uy tín trên văn đàn của Pháp: Les Trois Parques (Bá Số Phận), Colomnie (Vu Khống), Autre Jeux avec le Feu (Lại Chơi Với Lửa), Lame de Fond (Sóng Ngầm), Oeuvres Vives.

 

Theo báo Libération cá tính của Linda Lê thích cô độc, nhất định từ chối không muốn có con. Trong tác phẩm của Linda Lê, hình ảnh của một xứ sở cấm kỵ xa xưa, một người cha bị bỏ rơi, một người mẹ khuôn phép hay một người đàn bà hờ hững. Có những câu chuyện huyễn hoặc siêu thực mang cùng một sắc thái như trong các tác phẩm của Shakespeare, hay hàm chứa hoang tưởng, ảo ảnh và hội chứng trầm cảm.

 

Cuộc dời Linda Lê là một chuỗi dài của hạnh phúc đan xen với đau khổ, của tin yêu trộn lẫn với giận hờn, giữa những phút giây thiên đường hôm qua và địa ngục hôm nay. Linda Lê sanh tại thành phố Đà Lạt sương mù lãng mạn, năm 1963. Mẹ của Linda, một phụ nữ Việt Nam thuộc tầng lớp cao, bẩm sinh quốc tịch Pháp. Cha của Linda là người Việt thuộc tầng lớp xã hội thấp hơn mẹ, mặc dầu ông là kỹ sư đương thời. Năm 1968 chạy giặc Mậu Thân từ Đà Lạt xuống Sài Gòn. Trên đường chạy nạn, lúc ấy Linda mới có 5 tuổi đã nhìn thấy nhưng xác chết của trẻ thơ bên đường vì bom đạn chiến tranh. Hình ảnh đau thương của đất nước khắc sâu vào tâm trí của cô mãi mãi về sau này. Có lần Linda Lê đã phải thốt lên trong một trang viết: Từ đó tôi có cảm tưởng trong tôi có một xác em bé đang chết, Việt Nam quê hương tôi giờ này sao như xác chết của một trẻ thơ. J’ai l’impression de porter en moi un corps mort. C’est surement, le Vietnam que je porte comme un enfant mort. Thật là một định mệnh nghiệt ngã và tuyệt vời, vận nước nổi trôi đã gắn liền với số mệnh, thân phận của người con gái với tâm hồn nhạy cảm quá sớm. Nhưng đó cũng là nguồn cảm xúc dâng tràn mỗi khi cô viết về người cha của cô bị bỏ quên ở lại cùng quê hương Việt Nam.

 

Chạy giặc từ Đà Lạt xuống Sàigòn, theo truyền thống gia đình bên ngoại, Linda Lê theo học các trường Pháp. Chính ở Sài Gòn năm 1969, Linhda Lê phát hiện đời sống tình cảm của cô có gì bất ổn. Những nguyên nhân thời cuộc bên ngoài làm sự quan hệ giữa cha và mẹ của Linda trở nên lỏng lẻo  và tồi tệ. Lúc đó Linda Lê đã sớm thấy mình bị rơi từ thiên đường Đà Lạt xuống hố thẳm của địa ngục Sài Gòn.

 

Rồi chuyện gì phải đến đã đến. Hai năm, sau 30-4-75 Linda cùng mẹ và 3 chị em gái di cư sang Pháp vào năm 1977. Ở Pháp cũng như ở Sài Gòn, Linda Lê vùi mình trong văn chương, nghiền ngẫm tư tưởng các văn hào, triết gia Pháp. Phải chăng dó là một đam mê thiên phú, hay đó chỉ là cuộc chạy trốn chính mình – ego escape hầu để quên đi quá khứ của mình ở đó sừng sững hình ảnh của người cha bị phản bội tàn tệ, bị bỏ quên cùng quê hương Việt Nam cấm kỵ không được nói đến.

 

Năm 1981, Linda Lê tốt nghiêp lớp 12 tại trường trung học thời danh Henri IV ở Paris. Năm sau đó Linda được nhận vào học văn chương tại đại học Sorbonne. Tài năng văn chương của Linda được phát hiện rất sớm. Từ lúc cô còn tuổi vị thành niên, cô được sự hâm mộ và dẫn dắt của các vị giáo sư ngay bậc trung học. Chính những vị giáo sư này đã đưa Linda vào đại học Sorbonne. Những năm thập niên 80 những tác phẩm của Linda Lê đi theo một tiến trình căn bản và mạnh mẽ. Từ “Un Si Tendre Vampire” (Về một con dơi ác độc trìu mến) năm 1985 đến “Les Evangiles du Crime”( Phúc Âm của tội ác), xuyên qua các tác phẩm này chúng thấy thấp thoáng ẩn hiện về cái chết và ý nghĩ về một sự tự vận của Linda từ thuở ấy. Cũng trong thời khoảng này, Linda Lê cũng cho ra đời những tác phẩm khác được coi như là thứ yếu: Fuir (1988), Solo (1989)... vì phần nhiều các tác phẩm này không mang được những dấu ấn gì đáng ghi nhớ trong văn nghiệp của Linda Lê sau này.

 

Năm 1995 là năm định mệnh giáng xuống đời cô những tai họa đau xót ngất lịm hồn người. Đó là lúc cô được tin người cha của cô vừa qua đời tại Sài Gòn sau cơn đột quị lúc ông sửa soạn lên đường sang Pháp để tìm lại thăm cô và gia đình. Người cha muôn vàn thân yêu ấy trong suốt 20 năm, cha con không gặp lại nhau dù chỉ một lần. Tuy thế hai cha con không ngừng liên lạc thư từ chặt chẽ với nhau, có những đồng cảm về thân phận, hoàn cảnh của nhau và cùng tin yêu sâu sắc. Liền sau đó Linda Lê quyết định về Việt Nam để tiễn người cha mình đến nơi an nghỉ cuối cùng và cũng để thăm lại quê hương.

 

Với một nội tâm đầy xúc đông, và phẫn uất dường ấy làm sao Linda Lê chịu đựng nổi những đau đớn sau cái chết nghiệt ngã của người cha. Sau ngày trở lại Paris, Linda Lê rơi vào thế giới ảo giác, vây hãm bởi những mặc cảm tội lỗi, ý nghĩ về một sự tự tử. Đối với Linda Lê cái chết của người cha của cô còn có ý nghĩa cái chết của của một thần tượng đời cô, người đã thông hiểu nội tâm của cô. Sự ra đi của người cha đã để lại cho Linda một thế giới trống rỗng, không có niềm tin – un monde sans dieu. Sau đó Linda Lê đã phải nhập viện bịnh tâm thần. Đó là khoảng thời gian của hai tâp truyện  “VOIX/ Tiếng Nói” và “Lettre Morte/ Thư Chết”. Cả hai tác phẩm này đều miêu tả sự khổ lụy tận cùng của Linda khi nghĩ về người cha xấu số bị ruồng bỏ và chết với nỗi oan khiên không nguôi. Linda tin rằng trong lòng người cha luôn có hình ảnh của cô cũng như tiếng nói của người vẫn còn vang vọng đâu đây bên cô. Cũng như hình ảnh của những bức thư còn xanh màu mực.

 

Một thời gian sau đó Linda Lê xuất viện và dòng đời cứ tiếp tục trôi chảy thầm lặng. Linda Lê tiếp tục viết với những dằn vặt: “Les Trois Parques” năm 1997, và “Autre Jeu avec le feu” (Lại Chơi Với Lửa) năm 2002. Năm 2003 Linda Lê thực hiện Personne (Không Còn Ai) nói lên sự trống vắng, cuộc đời chan chứa cô đơn của người con gái vừa đúng 40, không còn cha, không còn quê hương, không chồng, không con...

 

Với một ý nghĩ thật là ngộ nghĩnh, Linda Lê cho hay cô đang chuẩn bị  xuất bản một bức thư gửi cho đứa con mà Linda Lê  đã và sẽ không bao giờ có. Từ năm 15 tuổi, cô đã chia sẻ ý nghĩ không muốn có con với người bạn trai của mình. Cô sợ mang thai, sợ cho con bú vì ngại rằng từ bầu vú của cô sẽ tiết ra tia sữa đắng, truyền nỗi cô đơn của mình cho đứa con vô tội. Như  vậy có con không khỏa lấp được nỗi buồn mà còn làm cho cô thêm mặc cảm  tội lỗi. Trong những năm gần đây, Linda Lê cũng có bạn trai thành khẩn chia sẻ với cô mong cô có con với lý lẽ khi Linda có con, ngoài ý nghĩ mình là người đàn bà, Linda còn là một bà mẹ bảo vệ nuôi nấng con. Có con sẽ mang lại cho cô hạnh phúc, niềm hy vọng về tương lai, tất cả sẽ làm cho cô thấy thanh thản, dịu dàng. Nhưng Linda Lê đã đáp lại bằng cuộc sống lứa đôi không nhất thiết phải có con mới tồn tại.

Cũng trong cuộc đời lứa đôi tình cảm, Linda Lê đã chọn một chỗ đứng cho mình trong dòng văn học của Pháp đặc thù Linda Lê, thoát ra ngoài mẫu mực giềng mối của Simone De Beauvoir, một Feminist Existentialist. Nhưng chưa bao giờ Linda cảm thấy cô đơn trong dòng văn học Pháp hiên tại. Trái lại cô được các giới  trí thức và báo chí văn học Pháp tích cực  chia sẻ với cô. Tác phẩm của Linda Lê, chẳng những được trọng vọng tại Pháp, được nhiều giải văn học tầm cỡ của Pháp, mà còn được dịch sang Anh ngữ, Đức ngữ...  và Việt ngữ.

 

Hôm nay đầu năm dương lịch 2022 ở tuổi ngoại ngũ tuần Linda nghĩ gì về thân phận con người trong chiến tranh và sau chiến tranh? Nhất là thân phận người Việt tỵ nạn chiến tranh, sống lưu vong cùng khắp thế giới trong hơn 45 năm qua? Chúng ta và Linda Lê có chung một vùng đất đứng, chung một tâm trạng, tư cố hương, nhớ về quá khứ, quê hương, và những người thân yêu còn hay đã khuất. Cám ơn Linda đã thể hiện tuyệt vời tâm hồn và suy tư của người Việt tỵ nạn. Hy vọng trong tương lai Linda Lê sẽ phản ảnh nhiều hơn nữa lên văn đàn nước Pháp và thế giới niềm đau thống thiết của cộng đồng Việt Nam, của nhân loại nạn nhân chiến tranh.  

 

Nghĩ cho cùng, trường hợp Linda Lê, trường hợp đặc thù văn học nghệ thuật với hiện tượng Thụ Tinh Chéo – Cross Fertilization – Linda Lê mượn ngôn ngữ xứ người, ngôn ngữ Pháp, để miêu tả nội tâm của chính mình, của cộng đồng Việt Nam khi nghĩ về hậu quả và hệ lụy của chiến tranh. Phải chăng Linda Lê cũng chỉ là nạn nhân của Hội Chứng Hậu Chiến – Post-Traumatic-Stress-Disorders-Syndromes – cũng như hàng triệu người Việt khác đang sống trong nước hay đang sống lưu vong trên cùng khắp 92 vùng lãnh thổ, quốc gia trên thế giới.

 

– Đào Như

(Oak Park, Illinois)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.
“Sự thật bắt đầu bằng tưởng tượng.” Không phải là câu nói cao siêu rỗng, mà phải nghiền ngẫm rất lâu trong hệ lụy thăng trầm mới có thể cảm nhận. Đó là lý do người ta thường đố: sự thật ở đâu? Không ai thấy rõ sự thật nên nó trở thành phương tiện cho tôn giáo, mục đích cho khoa học, triết học, và giấc mơ cho văn chương nghệ thuật. Cũng là một thứ bình phong, mồi nhử, cạm bẫy trong đời sống thường nhật cho những người bình thường dễ tin.
Đêm 7/3/2025, trong khán phòng của Bowers Museum, một tiếng nói đậm chất “đài phát thanh” vang lên, dẫn dắt hàng trăm khán giả bên dưới bước vào đêm nhạc Mừng Sinh Nhật Khánh Ly 80 Tuổi. Một tháng sau, cũng tại Bowers Musem, người MC này bước lên sân khấu dẫn dắt những buổi hội luận về báo chí, văn học tại Hội Chợ Sách “Viet Book Fest” lần thứ 3 do Hội Văn Học và Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) tổ chức. Cô cũng là Giám Đốc Điều Hành, người lèo lái con tàu VAALA 34 năm nay.
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, đại học UC Irvine tổ chức ba sự kiện văn hóa trong ba ngày 7,8,9 tháng 5 năm 2025. Mở đầu là hội thảo “Những Câu Chuyện Từ Việt Nam Tới Hoa Kỳ - 50 Năm Lịch Sử Và Cộng Đồng”; kế đến là buổi hoà nhạc The Odyssey—From Vietnam To America của nghệ sỹ đoạt giải Emmy Vân Ánh Võ; kết thúc là buổi chiếu phim New wave của đạo diễn Elizabeth Ai. Trong ba sự kiện này, buổi hòa nhạc The Odyssey đòi hỏi sự chuẩn bị công phu, kéo dài từ nhiều tháng trước. Trên sân khấu, Vân Ánh đã nhiều lần cảm ơn những tấm lòng hảo tâm đã giúp cô đem được buổi trình diễn đến với Quận Cam, thủ phủ của người Việt tị nạn ở Mỹ.
Một tay cầm micro, tay kia cố gắng lật trang sách để giữ nó cố định, Thái Nguyễn chỉ vào hình ảnh cô tài tử Hollywood gốc Việt đang tiếp nhận những ‘hào quang ánh sáng’ của báo chí điện ảnh Mỹ, trong tà áo dài màu xanh lá cây đậm, giới thiệu về sách thiếu nhi Mai’s áo dài: “Đây là lần đầu tiên áo dài Việt Nam hiện diện trên thảm đỏ Oscar!”
Từ đó, nàng được mang tên Nữ Hoàng Chân Đất (hay Nữ Hoàng Sân Cỏ)(*). Những bước chân trần tìm về dấu vết tình yêu nguyên thủy. Những bước chân đi khâu vá lại vết thương của một thời máu xương điên loạn.
“Nếu không có tiếng hát Khánh Ly thì chúng ta có những gì, còn gì?” Nếu chỉ được chọn một câu để nói về người ca sĩ đã cống hiến gần cả cuộc đời cho âm nhạc, thì tôi xin chọn câu nói trên của MC Lê Đình Ysa trong “Đêm mừng Khánh Ly 80 tuổi” được nhóm bạn trẻ Nina Hòa Bình Lê, Ann Phong, Lê Đình Ysa, Nguyễn Lập Hậu & Jimmy Nhựt Hà... tổ chức vào tối thứ Sáu 7/3/2025 tại quận Cam, Nam California.
Người ta thường gói ghém một cuộc đời trong dăm ba trang giấy để gọi là hồi ký. Người ta cũng thường dùng thước đo của 10 năm, 20 năm, 30 năm… để hoài niệm một điều gì đó, cho dù là hạnh phúc hay mất mát. Nhưng không dễ gì để tái hiện cả một cuộc đời dài 80 năm, trong đó có lịch sử, có tình yêu, có nhân quả, có triết lý sống, có ân tình, có nghệ thuật, có tài năng… chỉ trong một đêm. Vậy mà, Đêm-Khánh-Ly-80-Tuổi, đã làm được điều đó.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.