Hôm nay,  

Đống Đa Oanh Liệt – Mai Vàng

21/01/202214:26:00(Xem: 2736)

QT daiphaquanthanh
(Lời người lính già Tây Sơn tâm sự với bạn

năm Thiệu Trị Nguyên Niên).

 

Kể từ đấy ta thôi mài gươm dưới nguyệt

Tháng với ngày ta cấy lúa nương non

Đêm ta mơ về triều đại vàng son

Mà sóng lớp phế hưng xô đẩy không còn

 

Ta đã sống hơn một thời oanh liệt

Dưới ngọn cờ người áo vải Tây Sơn

Đã bao nhiêu năm xung trận công đồn

Đã vẫy vùng từ nam ra đến bắc

 

Xuân Kỷ Dậu hoa mai vàng lác đác

Đất Bắc Hà kinh động bước xâm lăng

Gió cuốn quân reo

Thét lên từ ba ngả

Rừng xanh đổ lá

Núi xanh nghiêng ngả

Giặc Thanh tràn qua

Đen nghịt cả đồng bằng

Ngựa dầy nát cỏ

Quân đạp lúa vàng

Những xác già ôm thây con đỏ

Những mẹ già tủi nhục quấn khăn tang

Lửa ngất cao ngùn ngụt căm hờn

Từ Cao Bằng trải dài tới Lạng Sơn

Từ Khương Thượng Thăng Long Ba Vì Phú Thọ

 

Bọn chúng nó

Cúi đầu vâng lệnh giặc

Những vua tôi cõng rắn cắn gà nhà

Những tên Việt gian đầy rẫy đất Bắc Hà

Tim mòn, óc rỉ

Lưng uốn, gối qùy

Những cánh tay kiệt sức

Của dòng Lê phong kiến suy vi

Còn gượng giơ lên

Dựng lai chiếc ngai vàng cũ kỹ

Mượn sức người

Ngoi ngóp sống trị vì

 

Từng đoàn người điệp điệp trùng trùng

Từ đồng bằng cao nguyên Nam Bắc Trung

Từng đoàn người bước nhẹ lên núi rừng

Men theo chân dẫy Trường Sơn cao ngất

Đêm núi lạnh đường gập ghềnh gian hiểm

Người ngậm tăm, ngựa tháo nhạc âm thầm

Voi bước nhẹ theo lối mòn lá đổ

Để đừng nghe xào xạc lá khô vang

Họ là lính đã đánh quen trăm trận

Ho là quân vừa mới mộ vài ngày

Họ là nông dân vừa bỏ cuốc bỏ cày

Cầm lưỡi gươm còn vụng dại trên tay

Nhưng trái tim chứa đầy nhiệt huyết

Giặc xâm lăng một lòng ta phải diệt

Để giữ vững giang san nòi giống Việt

Họ là cơn bão nổi trên không gian

Họ là cơn sóng đáy lan tràn.

 

Họ lướt đi trong đêm không trăng

Nồi Dương Xuân (1) vừa đi vừa nấu cơm

Bánh tét Nam Hà (2) vừa chạy vừa ăn

Người cáng người thay phiên nhau ngủ

Đội Xảo Mã (3) vùn vụt như sao băng

 

Hai bên đường làng mạc buồn hiu

Không có tết không cờ quạt cây nêu

Không tiếng chó sủa đêm

Không tiếng gà gáy sáng

Vài em bé bụng ỏng thân gầy teo

Thập thò nhìn từ đằng sau đống rạ

Đoàn quân Nam Hà đi qua vội vã

Im lìm như những bóng ma

 

Ngày mồng ba quân ta vây Hà Hồi

Quân giặc còn ngủ say như chết

Trong cơn rét mùa đông

Bên gái đẹp rượu nồng

Đêm không trăng sương mờ dầy đặc

Còn nghe bay tiếng muỗi vo ve

Bỗng ầm ầm hàng vạn tiếng quân hô

Như vỡ tan chín từng trời đất

“Đồn Nguyệt Quyết Gian khẩu đã mất

“Đồn Hà Hồi mau hàng

“Đại Đế ta nhân đạo

“Không giết kẻ quy hàng”

Trước khí thế long trời lở đất

Đồn Hà Hồi run sợ kinh hoàng

Run như run trước thần dũng Long Nhan

Cờ trắng đưa lên cửa trại mở toang

 

Toàn quân ta rầm rộ tới Ngọc Hồi

Tiếng quân reo rung động cả núi đồi

Trời hừng sáng mặt nhìn nhau rõ mặt

Lệnh dừng quân, bao vây quanh đồn giặc

Đồn đen ngòm từng vọng gác nhấp nhô

Vài lá cờ Ngủ Hành (4) đang ngơ ngác

Hoang mang bay theo ngọn gió heo may

Chúng không ngờ quân Việt đi như bay

Từ Tam Điệp chỉ vài ngày là tới

Quân ta như từ trên trời rơi xuống

Giặc còn say bàng hoàng quân với tướng

Gượng đứng lên tìm cung kiếm đao thương

 

Nửa đêm hướng chính bắc

Lửa cháy rực một phương

Khói thuốc súng ngọn gió mùa đưa tới

Cánh quân Thượng Đạo đô đốc Đông (5)

Đã vây đồn Khương Thượng và tiến công

 

Nhà vua đứng bật dậy ra hiệu lệnh

Cho toàn quân công phá đồn Ngọc Hồi

Người cưỡi voi trận, mặc áo bào đỏ

Đầu đội giáp trụ, cổ quấn khăn vàng

Thề cùng tướng sĩ tiếng thét dậy vang

“Ngọc Hồi hôm nay phải thành bình địa “

Tiếng trống dục tiến quân từ bốn phía

Giặc kinh hoàng hồn vía bay lên mây

Voi voi chiến một trăm con dàn hàng

Voi làm cho kỵ binh địch

Hoảng loạn tan hoang

Những bước chân ngàn cân

Không gì cản nổi

Của đàn voi lồng lên dữ dội

Dẫm nát hàng rào

Đạp đổ tường cao

Mở đường cho đoàn binh bộ xông vào

 

Quân Việt dùng rơm khô thấm nước

Phủ lên những tấm ván khổng lồ

Làm lá chắn cho đoàn quân cảm từ

Lấp hào sâu dùng dao ngắn tiến lên

Súng hỏa hổ (6) phun lửa đốt chân giặc

Thảm rồng bay (7) từng mảng cháy trên đầu

Đại bác trên voi (8) nhả đạn thẳng vào

Những công sự vững bền thành gạch vỡ

Đại quân ta người người hăm hở

Như cuồng phong ào ạt tiến vào đồn

Chém giặc như chém ngọn chuối non

Như chém người tay không tấc sắt

 

Trận công đồn vừa xong trong chớp mắt

Bãi chiến trường xương máu khắp quanh đây

Những xác người nằm như đang ngủ say

Cơn bão đã qua, bây giờ là vắng lặng

Chiến trường nào không tanh mùi máu mặn

Chiến thắng nào không trả giá chua cay

Lịch sử sẽ ghi dấu vết hôm nay

Một trang mới huy hoàng và lẫm liệt

Quân sử sẽ giữ gìn binh pháp Việt

Hành quân thần tốc truy kích bất ngờ

Mỗi chiến trường một sáng tạo quân cơ

 

Ngọc Hồi tan Khương Thượng im tiếng súng

Từ Đống Đa đoàn quân Đô Đốc Đông

Đang tiến về cửa Tây thành Thăng Long

Đón Đại Đế vinh quang vào thành nội

Đoàn chiến sĩ vội xếp thành hàng đội

Tiến vào thành trong ánh sáng bình minh

Mặt trời lên soi sáng rực cổng thành

 

Thang Hùng Nghiệp bên đầm Mực thây phơi

Trường Triều Long trên cầu Vịnh xong đời

Sầm Nghi Đống núi Loa Sơn treo cổ

Hứa Thế Hanh chết cháy tại Ngọc Hồi

Tôn Sỉ Nghị bỏ cả ấn tín chạy qua cầu

Cầu phao đứt hàng vạn quân chết đuối

Xác giặc trôi làm nghẹt dòng sông cuối

Máu giặc pha nhuộm đỏ nước sông trong

 

“Máu thù nhuộm đỏ nước sông

“Từ nay ta gọi là sông Hồng Hà”

Thăng Long kiếm thép nở hoa

Xác thù chất ngất Đống Đa mấy gò

Ngọc Hồi phơi vạn xương khô

Một bành voi đạp đổ xô mấy thành

 

Dân Bắc Hà mừng vui ùa ra nghẹt phố

Đón đoàn quân vừa giải phóng Kinh đô

Một bà già khăn mỏ quạ vải thô

Nắm vạt áo người chiến binh Thuận Hoá

Hàm răng đen cười vui hỏi đon đả

“Cháu ơi nhà vua đâu nhà vua đâu”

“Bác hãy tìm người nào cưỡi voi trận

“Áo bào màu đỏ, nón trụ trên đầu”

Nhưng tìm mãi không thấy người áo đỏ

Vì áo vua thuốc súng nhuộm đen mầu

“Tiếc quá không được thấy nhà vua”

Vừa nói vừa đưa tay quệt miệng nhai trầu

Vài cô gái chỉ tay cười khúc khích

Đưa trái cam cho người lính rách vai

Tò mò nhìn những võ khí lạ đời

Đại bác Nam Hà (9) súng loe lòng Long Thọ (10)

Súng Hoả Hầu cùng với Thảm rồng bay

 

Đại Đế về Nam

Chuẩn bị cuộc Nam chinh (11)

Thề thống nhất Bắc Nam về một mối

Xây dựng nền tự chủ vạn xuân xanh

Người chỉ ngang mũi nhọn về phương Bắc

“Rồi nước non này sẽ phục hưng

“Sẽ vun sức mạnh vào ngọn giáo

“Sẽ phục hoạt dòng văn hoá Môn (12)

“Sẽ đòi lại đất xưa tiên tổ (13)

“Sẽ rửa lầu xong mối nhục hờn”

 

Rồi một hôm ngọn cờ rủ màu tang

Quân với tướng sụt sùi quỳ nhỏ lệ

Ngựa và voi phủ phục ở đầu non

Đại Đế đi rồi đâu lời huyết thệ

Lửa gươm thiêng vụt tắt đã không còn

Đế với vương chỉ còn lau với sậy

Gió vi lô sào sạt tiếng ca dao

Đây muôn đời sóng Hồng xô với đẩy

Tìm nơi đâu áo vải với cờ đào

 

Nhọc nhằn ngựa nản chân bon

Trèo lên đỉnh núi Trường Sơn khóc ròng

Thôi rồi nửa giấc anh hùng

Thù ngoài bẻ gẫy giặc trong dập tàn (14)

Sóng Cà Mâu gió Nam Quan

Đưa người về ngủ sử vàng thiên thu

 

Kể từ đấy nghiệp đế suy tàn

Mưa lầy luỹ đổ

Lá rụng thành hoang

Tráng sĩ vỗ gươm mà hát

Khúc ca bi hùng tim nát tan

Đêm đêm bên tai còn nghe vẳng

Tiếng ầm ầm mùa lũ nước sông Côn (15)

Như từ xa tiếng trống trận vang dồn

 

Kể từ đấy lưỡi gươm ta son mòn, thép rỉ

Tháng với ngày ta cấy lúa nương rừng

Mơ một ngày có lại một Quang Trung

Để lưỡi gươm già nua này sẽ lại vẫy vùng

 

– Đinh Quốc An

(Australia, 6/2021)


Chú thích:

 

(1) Dương Xuân là tên một thôn chuyên làm nghề thợ rèn gần Phú Xuân. Có lẽ họ đã dựa theo sáng kiến của Nguyễn Huệ chế tạo ra bếp nấu cơm di động.

 

(2) Có truyền thuyết cho rằng nghe tin quân Thanh xâm lược Việt Nam Nguyễn Huệ tức giận bóp chiếc bánh chưng trong tay thành chiếc bánh tét, và chợt nẩy ra một sáng kiến quân sĩ có thể vừa đi vừa cầm bánh tét ăn.

 

(3) Xảo mã là toán quân cưỡi ngựa cực nhanh tiếp vận lương thực võ khí và y tế cho đại quân. (Theo tài liệu của học giả Hồ Hữu Tường)

 

(4) Quân Thanh chia ra làm năm binh chủng dựa theo ngũ hành kim mộc thuỷ hoả thổ.Mỗi binh chủng mang một màu cờ riêng gồm trắng xanh đen đỏ vàng.

 

(5) Đô đốc Đặng Tiến Đông có nhiệm vụ đánh đồn Khương Thượng và Đống Đa để ngăn quân Thanh ở Thăng Long tiếp cứu đồn Ngọc Hồi.

 

(6) Súng hoả hổ là một loại súng phun lửa.

 

(7) Thảm rồng bay lá một loại súng bắn tung những mảng thảm lửa lên cao rồi rơi xuống đầu quân địch.

 

(8) Đặt đại bác trên lưng voi là sáng kiến của Nguyên Huệ.

 

(9) Đại bác Nam Hà do chúa Nguyễn cho chế tạo nhưng có lẽ đã được Nguyễn Huệ biến chế đi làm cho súng bắn hỏa lực mạnh mẽ và hiệu quả hơn.

 

(10) Súng này được chế tạo ở thôn Long Thọ gần Phú Xuân.

 

(11) Cuộc Nam chinh để tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh ở Gia Định.

 

(12) Thời xa xưa các bộ lạc Việt dùng chữ Môn trông giống như con nòng nọc để ghi chép.

 

(13) Nguyễn Huệ có tham vọng đòi lại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây xưa vốn thuộc về đất Việt.

 

(14) “Ta đánh quân Thanh như bẻ gẫy thanh gỗ mục, đuổi Nguyễn Ánh như dập tắt đốm lửa tàn” lời Nguyễn Huệ.

 

(15) Sông Côn chia vùng đất Tây Sơn ra Tây Sơn hạ và Tây Sơn thượng. Đó là chiến khu đầu tiên của lực lượng Tây Sơn. (Theo tài liệu của nhà văn Nguyễn Mộng Giác trong bộ trường thiên Sông Côn Mùa Lũ).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.