Hôm nay,  

Hồn Xuân

28/01/202200:00:00(Xem: 2344)

 

Minh hoa Đinh Trường Chinh
Hình minh họa - Tranh Đinh Trường Chinh 

 

Kể từ “Ngày ấy”, cuộc chia biệt tới nay đã hơn 45 năm vật đổi sao dời, cụ ông cụ bà mới có dịp gặp lại nhau. Kể nhau nghe chuyện gió bấc mưa phùn, màu trăng trên bến cũ. Tình già, tình như rêu.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                            
Bé gái tên Nhiên hầu bà nội đã nhiều năm nay, từ năm cô lên mười. Hầu, là phải luôn gần nội, đôi lúc đọc truyện cho bà nghe, mô tả những gì đang có trước mắt nhưng nay bà không còn nhìn thấy. Cây mai vườn nhà ngày giáp Tết nhiều hoa hay ít. Có đàn chim trời nào đang bay qua trên từng cao kia không? Tính tình bà rất hiền hòa. Hay kể chuyện xưa. Hồi ông nội là một sĩ quan quan trẻ, rất đẹp trai, hào hoa, rất thương yêu bà. Bà bảo, thuở bé, bà đã thấy đàn chim bay từ phương bắc vào nam trốn mùa lạnh, ngày đầu xuân trời quang mây tạnh, khí tiết ấm áp, chúng bay trở về phương bắc. Đại khái bà muốn biết những gì giờ đây bà chỉ cảm, chỉ nghe, chỉ ngửi được, nhưng không thể nhìn thấy được.

Bà nội nói bà mất ánh sáng vì ông nội cho bà được mù. Ông tặng bà một dịp thương nhớ không dịp nào có thể nhớ thương hơn. Một trận khóc dai dẳng, khiến đôi mắt mờ dần. Đâu ngờ nước mắt là lá chắn vĩnh cửu che cắt ánh sáng. Ông nội cũng thương bà lắm, nên trong thăm thẳm lòng ông, có món ích kỷ lạ lùng, ông muốn bà nên mù, “Em ạ, hãy thôi nhìn. Đừng nhìn gì nữa khi mỗi chúng ta người này đã mất người kia”.

Sống trong cái lịch sử quái lạ, đầy hố thẳm của Việt Nam, sự cách biệt tâm linh tình cảm giữa hai thế hệ nối nhau đã chứa đầy ly biệt. Bé Nhiên rất rối rắm mỗi khi nghe bà nội tâm sự. Cô không tiêu thụ nỗi cái biển “nỗi lòng” quá khứ của một người mất ánh sáng. Cô đang trong một thế giới riêng, vô tư trẻ trung, khó chia sẻ, hóa giải được tâm trạng của bà, tuy cô và bà có dòng máu chung.

Lại rất đỗi hoang đường, khi Nhiên nghe cha cô nói/kể/giảng giải về “Ngày ấy”, ngày đành chia biệt giữa ông bà nội của cô. Cha cô nói nhiều lắm, nhưng ông cười thật thà, không tin rằng mình nói/tả đúng cái thời sự thời cuộc đã từng diễn ra ấy. Với ông, nó như một chuyện cổ tích.

Ông tự than van “Hồi đó cha mới sáu tuổi mà, nào biết trời trăng gì”. Những đường phố, vỉa hè Sàigòn, người ta vất đầy những vũ khí, nón sắt, giày trận, những bộ quân phục màu ô liu. Quân đội Miền Nam tan rã, bỏ núi rừng rút về đồng bằng, tan nát từ đồng bằng, co cụm trong thủ đô, rồi tan bong bóng. Đường phố một trưa nắng bỗng như rực lửa, với tiếng gầm thét của đoàn xe tăng, những binh lính ốm o, da tái nhợt, bấy lâu từ sâu trong múi rừng đã xuất hiện giữa các đại lộ Sàigòn. Gấp gáp quá, dân chúng Miền Nam chẳng ai kịp buồn thảm hay tỉnh táo biện minh cho cái giây phút tuyệt vọng ấy.

Đã 47 năm qua, cha của Nhiên, một đứa bé sáu tuổi nay đã qua năm mươi, tuổi của tri thiên mệnh, ông đã chẳng thể kể lại câu chuyện “Ngày ấy” đúng sự thật là một nhân chứng đã từng tham dự. Tuổi thần tiên, trí nhớ trong lành đã rất mực nhuộm màu mơ hoặc. Những nan vấn bí ẩn, về cái gọi rằng lịch sử, vẫn chưa hề được giải mã.

Hãy đi hỏi mọi người. Hỏi những mái đầu hôm nay trắng màu cước ở phố Bolsa, Nữu Ước, Houston. Hãy đến hỏi những phận người đang khô héo ở Sàigòn, Đà Nẵng, Nha Trang. Hỏi những trang giấy vàng ố sự thật. Tất cả sẽ nói cho nghe, “Ngày ấy” rạch ròi. Bởi, chính họ, trong suốt cuộc nội chiến Bắc-Nam, tất cả đã cùng lên sân khấu diễn tuồng. Chẳng ai là khán giả. Kịch hạ màn, chỉ họ với nhau hiểu và nhớ tuồng kịch.

Chỉ họ chia sẻ những vết thương với nhau thôi. Bình minh cho một bên. Bên còn lại, nhận lấy hoàng hôn.

Những đêm trăng còn lại, ai đó ngồi một mình. Có thể trong núi non. Có thể giữa con đường mọi người thân quen đã không còn ai.

Mọi sự đã già nua. Kẻ diễn tuồng đã lần lượt cỡi hạc bay đi, kẻ còn lại đã tay run chân yếu, mất trí nhớ. Nhưng chuyện đời chẳng bao giờ khép lại, vì mỗi mùa xuân luôn mở ra cuốn lịch mới.

**

Chiều lung. Gió đầu xuân se lạnh. Bà bảo đặt một chiếc ghế ngoài vườn cho bà ngồi.   Chừng như bà đánh hơi được mùi của núi, bà quay mặt đúng hướng núi. Tai bà rất thính, bà nghe được tiếng côn trùng xa. Nhiều đêm khuya, bà ngủ rất ngon, hơi thở đều, nhưng môi miệng bà luôn thầm thì. Nói với ai trong giấc ngủ? Giọng bà rất êm ái. Câu chuyện có đầu có đuôi, của tâm sự, tình tự. Nhiên luôn nằm cạnh bà. Nghe rất nhiều “Tâm sự trong đêm” của bà. Một đêm, khách trong giấc mơ đi rồi, bà tỉnh táo nói với Nhiên, “Xương cốt ông nội của con mùi trầm, gỗ trầm thơm”.

Mải mê cõi tục lụy, nhưng có người sống với thần tiên.

Qua một cánh đồng rộng, từ đây nhìn thấy phía Đông Trường Sơn xa xa. Núi xanh thẳm. Núi miệt mài kéo từ bắc vào nam. Mây đen nặng tầng tầng, che lấp một phần ánh mặt trời. Phần còn lại là ráng chiều le lói.

Bà nói với Nhiên:

- Con có thấy một người đàn ông, y phục màu ô liu, dáng cao lớn, đang đi vào xóm mình? Kia kìa, hình như ông đang trở về nhà.

Nhiên nhìn ra cổng, con đường đất dẫn ra cánh đồng, những bờ ruộng nước, lúa thời con gái xanh mướt, cô chẳng thấy ai. Cô nói:


- Con chẳng thấy ai bà ơi.

- Có mà! Người đang tới.

Nhiên nhìn lại lần nữa, nói với bà:

- Có mấy con cò trắng. À có chị Thám, hình như đi chợ về.

Bà nở nụ cười, nói thật tình:

- Người ấy đã vào.

Bất ngờ bà nhổm người dậy. Như chờ ôm một người. Rồi bà ôm khoảng không. Như ta ôm một ai thân thiết lâu ngày mới gặp lại nhau. Hẳn trong đôi mắt tối của bà có ai hiện hình. Một ai lung linh. Môt nhẹ tênh rưng rưng mà bao la, thứ ánh sáng hừng đông, một mặt trời sẽ có mặt.

Đầu bà nghiêng qua một bên, như nghiêng mặt chờ người kia áp cái má vào, làn da ấm lâu ngày tưởng đã lạc loài nhau. Bà vỗ vỗ bàn tay vào khoảng không, như ta thân mật vỗ lưng người kia khi tha thiết ôm nhau. Thế giới tối tăm bà đã thoắt dựng một hình người. Một thiết kế hoang đường.

- Em chờ mình lâu quá.

Không nghe ai nói gì, vì Nhiên chẳng thấy ai bên bà. Chỉ nắng chiều và núi xa xanh màu chàm. Bà quàng cánh tay mặt vào khoảng  không, như ta choàng qua vai âu yếm một người. Giọng bà rất buồn:

- Gần em chút nữa.

Bà ngửi không gian. Bà nói nhỏ nhẹ. Nhiên nghe rõ, Da của ông nội mùi nhang khói. Nhiên bắt đầu sợ hãi, nhưng quả thật cô nghe rõ mùi trầm thơm, thoảng trong gió.

Bà ra dấu bảo Nhiên đứng dậy, nhường chiếc ghế cho ông ngồi.

Núi phía trời tây hãy còn le lói ánh chiều.

“Em vẫn thường thấy mình về trong giấc ngủ khuya khoắt, cơn mơ đầy nắng. Rồi mình vội bỏ đi. Sao mà bỏ em. Vì sao cuộc đời chỉ còn ý nghĩa trong những giấc chiêm bao”.

Chừng có ai nói gì đó. Trong khoảng chiều im vắng. Bà lắng tai nghe. Lời trong lá rụng, trong cành trúc lay, trong nắng mềm. Những lời an ủi bà. Những nhắc nhở kỷ niệm. Hỏi bà cái tình thế, cái hoàn cảnh vợ con còn nơi trần thế. Chừng như được dịp tỏ tình, bà tuôn trào tâm sự.

Bọn họ đã đến. Chúng ta phải ra đi. Anh bỏ biệt em từ lúc đồn lũy tan bóng nước. Con chúng ta  ra khỏi trường, vì bị đuổi học. Tài sản còn sót lại của chúng ta lần lượt ra đi, đến chỗ chợ trời, để con cái có miếng ăn. Những vật vô tri hóa ra nó có đường vận mệnh làm ta nhớ nhung. Soạn mấy bộ vét cùng những vật kỷ niệm của anh như đồng hồ, ống vố, những đôi giày hàng hiệu, bỗng nhớ nhung những ngày phép, anh diện vào, anh đưa em đi tiệc tùng khiêu vũ. Dưới ánh đèn màu, anh đẹp lắm, một người chồng luôn hào hoa. Tưởng anh chẳng bao giờ cũ. Bây giờ anh không còn trên cõi đời để được cũ dần mòn. Chẳng còn anh để rệu rạo bên em lẩm cẩm. Hết gì ăn rồi. Em xếp chiếc áo cưới cùng mấy chiếc áo dài, nó ra đi, tới chỗ bụi bặm nơi lề đường chợ trời. Em lột chiếc nhẩn cưới, chao ơi là tủi lòng. Nó đang biến thành bo bo, bột mỳ Liên xô, khoai sắn.

Buồn nhất ngày em thu dọn cái bàn thờ. Bán bộ lư đồng, chiếc lư nhang sứ đồ cổ. Bán cái tủ thờ gỗ quý nạm xa cừ Nhị thập tứ hiếu. Em khóc vùi. Xưa kia em quỳ bên anh cúi lạy tổ tiên, Lễ gia tiên trong ngày cưới. Nay đành đoạn đề một bọn cùi đày, so bì giá cả. Nhà trống trơn. Mọi thứ ra đi. Đó cũng là giai đoạn cuối cùng của ánh sáng trong đôi mắt em. Ánh  sáng bỏ em. Ngày tưởng niệm một năm anh Ra-đi, thì em không còn thấy gì nữa.

Gió không có hình hài nhưng gió có chiều ngang chiều dọc, gió chạy vút một đường dài. Từ trước mặt ra sau lưng. Gió đóng mộc trong trí nhớ.

Bà đưa một bàn tay vào không vuốt mặt người chồng lâu năm được gặp nhau. Bàn tay dịu dàng. Cái vuốt nhẹ âu yếm. Khuôn mặt trường niên buồn bã của bà bỗng tươi hẳn ra, qua nụ cười. Chừng như đây là đúng lúc ta lột hết cõi lòng cho gió mây.

Cái khoảng không ấy là hy vọng đời bà. Khoảng trống ấy là nơi gặp gỡ của tình yêu.

Anh ngồi đi. Ông ngồi trên chiếc ghế con bé Nhiên vừa đứng dậy nhường chỗ. Người ông gầy nhưng thanh thoát, dáng vẽ một tiên ông.

-Mình từ thiên đường trở lại?

-Không, bọn anh ở gác lửng của thiên đường, nơi trung chuyển.

-Ừa, thằng con của chúng mình nó cũng phải ở đảo châu Á hơn một năm mới tới Mỹ.

Ông bất ngờ thở ra. Bà hỏi:

- Ôi đã tới được chốn thiên đàng mà các anh còn những người buồn bã, thất chí, sầu muộn ư, mình ơi!

- Em ạ, người Mỹ H.O gốc Việt hôm nay chẳng biết tâm tình tâm huyết họ vui buồn ra sao, chứ thiên thần gốc Việt bọn anh hôm nay toàn một thảm trạng nhai lại. Ựa cái nỗi lòng đắng cay, nhai hoài mãi cái quá khứ khó tiêu. Không là loài nhai lại cũng loài gặm nhấm. Một đời bận rộn gặm nhấm, đục khoét chính đời mình.

**

Trong hơi chiều, trong mây cao, trong tiếng núi xa vọng lại, bà sờ mặt vai chồng. Bà lục tìm những vết thương. Xưa kia lửa đã cháy trên da thịt này.
Bà nói với khoảng trống:

- Mình đã “Rời khỏi chốn này” sau những  loạt đạn cuối cùng ở đồn lũy Xuân Lộc. Hôm nhận được tin buồn em tìm đến nơi nhận mình về, lo việc sau cùng, nhưng giữa chừng thì đường sá đầy ngập người chạy loạn. Mọi người khuyên em nên trở về, nơi đó không còn ranh giới đồn lũy gì, tất cả đã tan tành. Ngược chiều, giáp mặt em, là những xe tăng, đại pháo, binh lính chân mang dép, mình áo chàm, tay lăm le ngọn súng.

Trông họ khá đơn giản, nghèo nàn và khổ hận. Các anh đã thua trận vì đoàn quân này. Họ thắng các anh vì các anh là những Con Người.

Họ đã gởi trước vào đây những “Đoàn quân em bé”. Chết như đang trong giấc ngủ, giữa các đường phố Miền Nam. Trên ngực các em có xâm hàng chữ “Sinh Bắc tử Nam”. Có em chết lõa lồ, háng non tơ chưa một sợi lông măng. Bầy thiên thần ấy đi hàng tiền phong, phụng hiến cho những cuộc mở đường. Họ đã thắng các anh vì xem những em bé kia không phải là con người.

Bà ôm cái khoảng không, đã nhuốm màu hoàng hôn. Đôi mắt không còn ánh sáng của bà trông rất tội nghiệp. Tâm sự dài lắm. Niềm đau, bao kỷ niệm màu máu bầm, những hy vọng bong bóng nước, bấy lâu đã hành hạ bà.

Bà gục vào vai người không bóng người. Nước mắt chảy dòng. Bà nói “Cảm ơn mình lau nước mắt cho em. Ôi mình còn giữ chiếc lau kỷ niệm này ư?”
Không gian bày biện những nghi ngờ. Trăng đã lên. Nhiên thấy bà nội trắng hếu. Bộ áo quần bà ba lụa trắng. Mái tóc trắng. Trời đầy ánh trăng. Mây màu trăng. Nhiên lạnh. Mùi xương cốt ông nội thoảng mùi thơm gỗ trầm. Không gian rỗng trống bỗng mọc ra xương cốt. Những xương khổ hạnh như lũ cây mọc trên đá.
 
Thị Trần Giữa Đàng,
Đêm cuối năm Tây lịch 2021. 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.