Hôm nay,  

Điện Biên Phủ đem đến gì?

18/02/202200:00:00(Xem: 3597)

 

DBP-trang-nhat-1
Hình vẽ Đại Đế Alexandre.
  
331 năm trước Công nguyên, ngay sau chiến thắng Gaugamèles khi tiến vào thành Babylone, đại đế Alexandre nói trước hàng quân: “Chiến thắng này cho vinh quang và tự do”. Võ Nguyên Giáp khó tuyên ngôn như vậy trước lịch sử, vì Điện Biên Phủ không đem đến tự do cho dân Việt mà ngược lại, áp đặt một chế độ tàn khốc. Tự do nào sau đấu tố phi nhân, sau Cải cách ruộng đất, nông dân chỉ có thể cày thuê cho hợp tác xã? Và tự do nào khi dân Bắc di cư rồi dân Nam chạy theo lính Cộng hòa mỗi một khi “giải phóng” vùng “tạm chiếm”?

DBP-trang-nhat-2
Võ Nguyên Giáp.
 
Võ Nguyên Giáp hẳn nhiên muốn giữ lại vế đầu của Alexandre đại đế: “Điện Biên Phủ là một chiến thắng vinh quang.” Tất nhiên và không ai chối cãi, vì lần đầu tiên da vàng chiến thắng da trắng và lần đầu tiên một thuộc địa thắng đế quốc. Nhưng phía sau tấm huân chương là vinh quang cay nghiệt: Đẩy cả một dân tộc vào chiến tranh, mục đích của Hồ Chí Minh là giành độc lập, thống nhất 3 kỳ, nhưng Hiệp định Genève chỉ cho Hồ Chí Minh Bắc kỳ, Nghệ Tĩnh và Quảng Bình, ít hơn so với Hiệp ước Sơ bộ 1946 cho tự trị 2 miền Trung-Bắc, đến tận Phan Thiết. Đó là về đất đai, còn mục tiêu tối thượng – giành Độc Lập – tức giành quyền tự quyết quốc gia, Hồ Chính Minh đã đánh mất ngay tức khắc vào tay Bắc Kinh ngay khi tiếng súng vừa ngưng, còn nồng mùi tử khí.
 
Những ai chưa muốn tin, chỉ cần đọc lại Trận Đánh 30 Năm, tập 2, Nxb QĐND 1985, Ban Ký sự Lịch sử Tổng cục Chính trị do đại tướng Hoàng Văn Thái và trung tướng Trần Độ chỉ đạo, trang 461 và 462: “Đoàn Trung quốc đến Giơ-ne-vơ gồm 200 người, đông như một đạo quân. Họ muốn chứng minh họ là một nước lớn, mọi vấn đề có sự tham gia của Trung quốc mới có thể giải quyết thuận lợi. Lập trường của những người lãnh đạo Trung quốc gần giống của Pháp, nghĩa là một giải pháp theo kiểu Triều Tiên cho cuộc chiến tranh Đông Dương, tức là đình chiến về quân sự mà không có giải pháp đầy đủ về chính trị. Trung quốc quan tâm hàng đầu đến việc tạo ra một khu đệm ở sườn phía Nam, cách ly với Mỹ bằng những nước không có căn cứ quân sự của Mỹ, tránh được sự đụng đầu trực tiếp với Mỹ, đồng thời muốn hạn chế thắng lợi của Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương, hòng làm suy yếu và dần dần thôn tính ba nước đó, dùng làm bàn đạp bành trướng xuống Đông Nam Á. […] Trước tình hình diễn biến cụ thể của hội nghị, nhất là vì Trung quốc đã thỏa hiệp với Pháp, xuất phát từ truyền thống yêu chuộng hòa bình, tôn trọng nguyện vọng của các nước XHCN và nhân dân thế giới muốn có hòa bình, chúng ta đã chấp thuận giải pháp cuối cùng của hội nghị.”

DBP-trang-nhat-3
Cuốn sách nói về “Trận Đánh Ba Mươi Năm” và Võ Nguyên Giáp
 
“Giải pháp cuối cùng” là vĩ tuyến 17. Một vĩ tuyến làm Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh cảm giác “thất thu”, chính vì Việt Minh đang chiếm Tây nguyên, Đồng Tháp, Bình Trị Thiên cùng 3/4 diện tích Bắc phần, đánh tiếp quân Liên hiệp Pháp không thể thắng. 9 năm chiến tranh đã chứng minh sức ung thối các vùng đất quốc gia của Việt Minh không thể đảo hồi. Đánh tiếp, toàn bộ đất Việt sẽ rơi vào tay Việt Minh, nhưng Genève ngăn Hồ Chí Minh vượt qua Đồng Hới và cho Quân đội Quốc gia thời gian hoàn bị.
 
Võ Nguyên Giáp kể lại khi Chu Ân Lai thông báo chia đôi ở vĩ tuyến 17: “Bác và chúng tôi đều ngỡ ngàng. Phải chăm chú tìm trên bản đồ mới thấy dòng sông nhỏ Bến Hải ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Bác nói: với so sánh lực lượng trên thực tế chiến trường hiện nay, ta đề ra vĩ tuyến 13 (Phú Yên) là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với ta là không thể chấp nhận, chí ít cũng phải giành được vĩ tuyến 16 (Đà Nẳng).”  (Võ Nguyên Giáp, Điểm hẹn Lịch sử, trang 407, Nxb QĐND, 2001)

DBP-trang-nhat-4
Cuốn sách nói về “Trận Đánh Ba Mươi Năm” và Võ Nguyên Giáp
 
Quyết tâm của “Người” là vậy, nhưng vì sao cuối cùng Phạm Văn Đồng vẫn phải ký vào hiệp định? Vì đã đánh mất độc lập chính trị vào tay Mao. Trong lúc, trưởng đoàn Quốc gia Trần Văn Đỗ đã không ký để phản đối áp đặt thể chế Cộng sản lên miền Bắc, bất chấp áp lực từ phía Pháp. Thủ tướng Mendès France cay đắng: “Cộng sản gọi họ là bù nhìn của chúng ta, nhưng chúng ta không thể ra lệnh cho họ ký bất kỳ điều gì.”(Les communistes les appellent nos marionnettes, mais nous ne pouvons pas leur ordonner de signer quoi que ce soit.)
 
Trở lại với Trận Đánh 30 Năm, Ban Ký sự Lịch sử Tổng cục Chính trị chỉ có thể công khai “Trung quốc muốn hạn chế thắng lợi của Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương, hòng làm suy yếu và dần dần thôn tính ba nước đó, dùng làm bàn đạp bành trướng xuống Đông Nam Á…” trong bối cảnh chiến tranh biên giới 1979 vừa xảy ra và Hà Nội còn thù nghịch với Bắc Kinh. Sau đó Hoàng Văn Thái đột tử, còn Trần Độ bị khai trừ khỏi Đảng, một Trần Độ đã nhận ra: “Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ còn có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp.” (Trần Độ, Nhật Ký Rồng Rắn, 2001)
 
Võ Nguyên Giáp nhận ra gì? Ở chủ nghĩa Mao, Mác, Lê-Nin? Qua Hồi ức, ông vẫn tin Điên Biên Phủ là “cây cột mốc bằng vàng”, là “những tiếng vang vang tự hào”, với một tấm lòng tri ân sắt son Trung quốc. Ông không nhìn thấy mặt trái của hào quang: Lệ thuộc vũ khí khiến trở thành chư hầu. Sẽ phải triều cống đất đai và biển cả để trả nợ. Chế độ sắt máu toàn trị mà ngay cả chính ông cũng sợ hãi về sau. Là những gì Điện Biên Phủ đem đến. Võ Nguyên Giáp không muốn nhìn vào thực tế: Dân Việt được gì với một giai cấp cung đình tha hóa tự cho mình quyền cai trị vĩnh viễn đất nước, vì đã chiến thắng Điên Biên Phủ? Các sắc tộc thiểu số sinh sống trên miền Cao, quanh thung lũng Mường Thanh, được gì sau “lẫy lừng Điện Biên”?
 
Mở bất kỳ trang báo quốc nội nào cũng dễ dàng tìm thấy “những cái chết trắng”, chuỗi “đám tang không đàn ông”, những án tử hình, những cửu vạn đánh hàng sang Trung quốc rồi buôn lậu ngược về bị bắt, tỷ lệ tội ác, tội phạm ma túy cao ngất ngưỡng ở các bản làng Mường Pôn, Mường Né, Mường Tè, Mường Giang, Mường Lèo, Mường Chà…
 
Tìm trên internet “tỉnh nghèo nhất Việt Nam”, hiện ra:
 
Điện Biên – Tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước
 
“Điện Biên là một tỉnh nằm ở vùng Tây Bắc, miền Bắc Việt Nam. Giáp với các tỉnh Lai Châu và Sơn La của Việt Nam, Vân Nam của Trung Quốc ở phía Bắc, Phongsaly của Lào ở phía Tây, các huyện Pak Xeng, Pak Ou thuộc tỉnh Luangprabang của Lào ở phía Tây Nam.
 
Điện Biên là tỉnh giàu tiềm năng du lịch, đặc biệt là lĩnh vực văn hoá – lịch sử. Nổi bật nhất là hệ thống di tích lịch sử chiến thắng Điện Biên Phủ gồm: Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ – Mường Phăng; Các cứ điểm Him Lam, Bản Kéo, Độc Lập; Các đồi A1, C1, D1, E1 và khu trung tâm tập đoàn cứ điểm của Pháp (Khu hầm Đờcát). Nhưng hiện nay tỉnh Điện Biên vẫn thuộc diện đặc biệt khó khăn. Với hơn 90% dân cư là nông dân, chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp. Với tỷ lệ nghèo 38,25%, cận nghèo 6,83%, Điện Biên đang là tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước.”
 
Sơn La – Một trong 3 tỉnh nghèo nhất Việt Nam
 
“Sơn La là tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, tỉnh có diện tích 14.125  km² chiếm 4,27% tổng diện tích Việt Nam, đứng thứ 3 trong số 63 tỉnh thành phố. Có hơn 92.000 hộ nghèo, nên Sơn La cũng được xem làm một trong 3 tỉnh nghèo nhất Việt Nam. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của UBND tỉnh Sơn La cho biết, Sơn La còn tới hơn 36.000 người thiếu đói. Sơn La hiện vẫn là một trong những tỉnh nghèo của cả nước. Toàn tỉnh có 11 huyện và 1 thành phố thì có tới 5 huyện nghèo thuộc chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững của Chính phủ (Chương trình 30a).”
 
Tiếp đến là Hà Nam – tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất đồng bằng sông Hồng; Quảng Bình – tỉnh nghèo nhất Bắc Trung bộ; Quảng Nam – tỉnh nghèo nhất duyên hải miền Trung…  
 
Điện Biên Phủ đem đến gì? Là câu hỏi theo Võ Nguyên Giáp xuống đáy mồ. 


Trần Vũ
 


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.