Hôm nay,  

Huế Quảng Sương Sương

17/02/202211:13:00(Xem: 3539)

Tùy bút tưởng nhớ nhà thơ Đoàn Vị Thượng

 

doanvit
Nhà thơ Đoàn Vị Thượng  (1959-2021) qua nét vẽ của nhạc sĩ Phạm Đăng Khương.


Khoảng 10 năm trước, nhờ chị bạn thư đi, tin lại, tôi “tương ngộ” nhà thơ Đoàn Vị Thượng, cũng là “tái ngộ” anh Trần Quang Đoàn, một người “rất quen” của quãng đời như thơ, như mộng cách đây hơn 4 thập niên “ở một nơi ai cũng quen nhau: Café Uyên”.

 

Gặp lại anh Đoàn, tôi vui quá chừng. Có lẽ, ai cũng vậy, nhắc chuyện ngày xưa, tuổi có năm mươi, sáu mươi lòng vẫn xôn xao như thể mười lăm, mười sáu. Sau bao nhiêu năm, vật đổi, sao dời. Chị bạn nói, anh Trần Quang Đoàn giờ đây là nhà thơ Đoàn Vị Thượng, ngồi ở “chiếu trên”, với những tên tuổi dành cho các cô cậu học trò “Mực Tím, Áo Trắng...”. Bởi vậy, ban đầu, tôi rụt rè, hỏi dè chừng đôi câu, sợ quấy rầy “người cao”. Nhưng khi nghe giọng kể hào hứng của anh, (theo tưởng tượng của tôi, chứ anh chỉ “nói” trong email mà thôi) tôi dạn dĩ hơn, liên tục vẽ thêm nhiều dấu chấm hỏi gởi anh Đoàn. Rõ là, được voi, đòi tiên. Thấy thư của doanvithuong@... đến, tôi mở ngay, đọc say sưa, rồi thảo thêm nhiều câu hỏi khác. Chuỗi điện thư của anh Đoàn như những thước phim sống động, về ngày tháng vào thập niên 70 ở Quảng Ngãi với những cô nàng Thanh Tâm, Cẩm Thành, Thương Thương... với những anh chàng Trầm Thụy Du, Nguyễn Minh Phúc, Mai Sơn, Lý Văn Hiền, Nguyễn Hải, Nguyễn Xuân Phước, Nguyễn Xuân Đức, Bùi Tuấn Kiệt, Nguyễn Tấn Cư, Trần Hữu Hoài Bão... Giữa những câu chuyện về “người lớn”, về các anh, các chị, sắp sửa là cậu tú, cô tú, sinh viên, anh Đoàn chợt reo lên, nhắc đến “người nhỏ”: “À, anh nhớ thêm một chi tiết, Café Uyên có cái xích đu, xeo xéo quầy tính tiền. Anh nhớ, từng ngồi đong đưa trên đó, thơ mộng nhâm nhi cà phê và... quan sát Thúy”. Phút chốc, tôi cảm thấy mình như con bé 15 tuổi năm nao, bẽn lẽn, e thẹn, vì biết có người đang nhìn mình. Mơ màng, tôi nghe nhà thơ Đoàn Vị Thượng nói giùm tâm trạng của tôi:

 

Vấp mùi hương cũ ngẩn ngơ

Mấy mươi năm đến bây giờ chưa tan

(Hoài Quê)

 

Qua lời kể của anh Đoàn, đúng hơn, của nhà thơ Đoàn Vị Thượng, tôi được biết thêm những câu chuyện nho nhỏ, đáng yêu của ngày cũ. Anh vẫn gặp các nhà thơ, nhà văn Tuổi Ngọc như Hoàng Ngọc Tuấn, Đinh Tiến Luyện, Mường Mán... Anh kể, sau 1975, Nguyễn Thanh Trịnh đổi thành Đoàn Thạch Biền. Bài thơ anh ghi “tặng ĐTB” mới dễ thương, mới “tuổi ngọc” làm sao.

 

Ví dụ anh ngồi lâu được không

Ngồi hoài, như tảng đá rêu phong

Chớ tưởng tay em là yếu đuối

Chạm thử anh lăn được mấy vòng

(Ví Dụ Ta Yêu Nhau)

 

Bây giờ gặp lại anh Đoàn, tôi mới biết gia đình anh và gia đình chúng tôi có hành trình “con đường cái quan” tương tự. Chúng tôi nhận nhau là đồng hương “Huế Quảng sương sương”. Cả hai chúng tôi cùng thương yêu, trân quý giọng Huế của Mạ. “Giọng Huế của Mạ tôi” xa Huế, vào Quảng Ngãi, Sài Gòn rồi sang Đức. “Giọng Huế của Mạ anh Đoàn” thì: 

 

Sông Hương chảy xuôi dòng, Mạ có thời chảy ngược

Vào miền Nam trắc trở đến giờ

(Giọng Huế của Mạ)

 

Chuyện trò rôm rả trong điện thư với anh Đoàn, tôi hỏi thăm về một “cố nhân”. Thế là anh Đoàn kể vèo vèo câu chuyện hình- như- là- tình- yêu, với lá thư tình dài 48 trang gởi cho con bé học trò lớp Chín. Nhắc kỷ niệm nhiệm mầu, lòng tôi bổi hổi, bồi hồi. Anh Đoàn cũng không biết “cố nhân” trôi giạt về đâu. Nhưng anh còn nhớ rõ ngọn ngành của lá thư ngày xưa. Càng nghe, tôi càng cảm động, xao xuyến hơn. Thỉnh thoảng, anh Đoàn chậm thư, vì anh phải chuẩn bị bài vở cho tòa soạn. Nghĩ, ai cũng có nhiều áp lực của cuộc sống, tôi không dám “quấy nhiễu” thêm. Về sau, thư từ thưa thớt dần. Bẵng đi mấy năm, tôi không liên lạc với anh Đoàn.

 

Năm kia, chị bạn báo tin anh Đoàn bệnh và cho tôi số điện thoại của anh. Tôi có dịp trao đổi đôi chữ với anh qua viber. Rằm tháng Ba năm ngoái, soạn lại những thư điện tử của anh Đoàn, lòng lưu luyến những tiếng xưa êm đềm, tôi viết cổ tích “Đếm Sao”. Ngày xưa, ngày xửa, có một “cậu bé thầm lặng” trao cho cô bé mắt to một lá thư tình dài vô tận. Nhiều năm sau, cô bé mới biết rằng, tác giả của lá thư là “cậu bé thi sĩ”, bạn của “cậu bé thầm lặng”... Tôi phân trần qua viber với anh Đoàn rằng, tôi không nhớ rõ nội dung của “quyển” thư tình. Bởi thế, tôi thêm màu sắc, tô vẽ chút chút. Nhưng các chi tiết khác, tôi “thành khẩn khai báo” dựa theo trí nhớ của mình và thông tin của anh. Mong tác giả “quyển” thư không rầy rà. Anh Đoàn bật cười (tôi nghĩ vậy), nhá đèn xanh trong viber: “Anh vui chứ!”. Tôi nhờ nhà xuất bản gởi thẳng đến anh Đoàn tập truyện Long Lanh Màu Trời. Vì thế, tôi không thể ghi lời đề tặng trong sách. Tôi chợt có sáng kiến, nhờ anh Đoàn viết giúp lời tặng của tôi. Như vậy cuốn sách đúng nghĩa là sách tặng và tôi được nhìn thấy nét chữ viết tay của anh Đoàn.

tquangdoai
Thủ bút của Trần Quang Đoàn.

 


Ít lâu sau, tôi nhận điện thư của anh Từ Nguyên Thạch. Anh Từ Nguyên Thạch kể, “hai anh em đọc Long Lanh Màu Trời. Nhắc chuyện xưa, thấy sống lại một thời thanh xuân tươi vui. Trong những ngày bệnh, không gì vui hơn có những món quà của người bạn thuở xưa cách nửa vòng trái đất vẫn nhớ về”. Những emails báo tin của anh Từ Nguyên Thạch tuy ngắn gọn, tôi vẫn cảm nhận được tình thương yêu chan hòa, sự chăm sóc tận tụy của người anh dành cho người em. Nhờ anh Từ Nguyên Thạch sắp xếp thì giờ, tôi có được hai lần nói chuyện qua điện thoại với anh Đoàn. Cuộc điện đàm không dài, nhưng chúng tôi có đôi phút, cùng vui với những hồi tưởng về ngày tháng cũ. Tôi lóng ngóng thăm hỏi. Anh Từ Nguyên Thạch cho biết sức khỏe của anh Đoàn không khả quan hơn, cầu mong anh Đoàn cùng gia đình đón tết Nguyên Đán năm Tân Sửu. Hôm mồng Năm tết, chị bạn thảng thốt báo tin: “Đoàn Vị Thượng đã bỏ chúng ta đi”. 

 

Như anh Đoàn nhắn nhủ trong bài thơ “Tôi là ai”: “Em có yêu đời này, xin yêu một cái tên: ĐOÀN VỊ THƯỢNG.” Biết bao người quý mến nhà thơ, nhà văn, nhà giáo, nhà báo Đoàn Vị Thượng. Riêng tôi, hơn thế nữa, rất thương, rất tiếc anh Trần Quang Đoàn, anh học trò Huế Quảng sương sương thuở mười lăm, mười bảy, đã gò lưng viết giúp cho người bạn lá thư tình dài nhất thế giới, để bạn gởi cho con nhỏ mắt to. Anh Đoàn ơi, lá thư ấy, dẫu chỉ còn là hình ảnh mờ ảo trong ký ức của Thúy, nhưng lúc nhớ ngày xưa, tơ lòng vẫn vương vương đó anh Đoàn à.

 

Nơi phương xa, Thúy xin đốt nén hương lòng, hiệp lời nguyện cầu cùng gia đình anh, nguyện cầu anh Trần Quang Đoàn thanh thản chốn yên bình.

 

-- Hoàng Quân

(Mồng Tám, tháng Giêng, Tân Sửu, 19.02.2021)

 

Nhà thơ Đoàn Vị Thượng (1959-2021) tên thật là Trần Quang Đoàn, sinh tại Huế, lớn lên ở Quảng Ngãi.


Các tác phẩm đã xuất bản:

 

-- Ngôi trường, hoa phượng và tôi (thơ, 1987)

-- Thơ Đoàn Vị Thượng (1988)

-- Chuyện tình chim hót (truyện dài, 1989)

-- Môi thơm (truyện dài, 1990)

-- Tóc em còn thả mùa đi học (truyện dài, 1991)

-- Thơ Đoàn Vị Thượng (NXB Hội Nhà văn, 2020)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.