Hôm nay,  

Tầm Nhìn Nghệ Thuật

25/03/202200:00:00(Xem: 4943)
Baichinhtrangnhat_Ngu Yen_Tam Nhin_1
Tranh: Miles Regis trong triển lãm “Better Days Ahead” (Những ngày khá hơn sắp đến.)

 

Một người đứng trước cửa nhà, nhìn ra đường cái, thấy không rõ; đưa tay che ngang mày, chận ánh nắng để có thể ngóng thấy chuyện gì đang xảy ra ở ngả tư. Đó là tầm nhìn.

Một người đi giữa cánh đồng, dùng ống dòm nhìn chung quanh, tay điều chỉnh liên tục để ống kính hội tụ điểm nhìn. Ở hướng tây, thấy những bãi hoa dại màu sắc rực rỡ; ở hướng nam, thấy những con chim lạ bay nhảy tung tăng; ở hướng đông, thấy một phụ nữ đang làm gì không thể đoán được. Đó là tầm nhìn.

Một người leo lên núi cao, nhìn xuống thành phố, xóm làng, ruộng nương, đường xá, sông lạch, nhỏ như đồ chơi, cảnh nhựa. Bốn bề mênh mông, dường như cảm khái trải dài đụng đến chân trời. Hơi thở tươi mát, lòng mở rộng, cảm thông đất trời. Đó là tầm nhìn.

Một người ngồi trong phòng ngày này qua ngày kia, cắm cúi nhìn vào kính hiển vi, theo dõi những con vi khuẩn, quên hết đời sống bên ngoài. Đó là tầm nhìn.

Có người, không biết có may mắn hay không, được phóng ra khỏi không gian, trên hỏa tiễn, nhìn vào màn ảnh, thấy trái đất nhỏ như quả banh giữa bao la đen tối, la liệt với những trái banh khác. Đó là tầm nhìn.

Có người, không biết có may mắn hay không, ngồi trong buồng, hé cửa nhìn ra vợ đang nấu ăn nơi nhà bếp. Một chút say mê, một chút vui, một chút không dám buồn, một chút đói bụng, một chút cảm ơn. Đó là tầm nhìn.

Tầm nhìn bắt đầu từ nhãn quan. Mỗi người có mỗi nhãn quan khác nhau, cho dù họ có thể đồng ý trên cùng một đối tượng hay một vấn đề, nhưng luôn luôn có điểm khác biệt. Nói một cách khác, nhãn quan dễ hợp nhãn trên những gì tổng quát nhưng rất dễ xung đột trong chi tiết. (Quan điểm này có bài học vở lòng: nếu muốn trở thành vợ chồng bền bỉ, phải có cùng nhãn quan về những gì tổng quát trong đời sống và phải trao đổi những gì thuộc về chi tiết khác biệt. Vợ chồng tranh cãi vì những chi tiết khác nhau là việc điều chỉnh lời thề “Yes, I do”. Nếu phải tranh cãi quyết liệt về nhãn quan tổng quát, có nghĩa là li dị đang gần kề.)

“Tầm nhìn nghệ thuật là hướng nhìn và phạm vi của nhãn quan cá biệt về nghệ thuật.” Định nghĩa này có các cụm từ quan trọng như “phạm vi”, “hướng”, “cá biệt”. Bất kỳ là ai, sáng tác lẫn thưởng ngoạn, đều có tầm nhìn nghệ thuật cá nhân. Chỉ khác nhau ở phạm vi và phương hướng; chỉ khác nhau tầm nhìn gần, tầm nhìn xa, tầm nhìn rộng, tầm nhìn hẹp, tầm nhìn cao, tầm nhìn thấp. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường ngưỡng mộ và ái mộ những người có trình độ nghệ thuật hoặc có nét nghệ thuật riêng biệt. Chỉ bằng áo quần đơn giản nhưng cô ta đã chọn lựa màu sắc và kiểu mẫu phù hợp với thân người, thêm một chút môi son, không tô phấn, tóc để tự nhiên, nhưng trông sao mà lôi cuốn quá. Ông kia chỉ có một khu vườn nhỏ nhưng bố trí những loại hoa cao thấp và những màu sắc từ đậm đến lợt đi vào trung tâm, khiến tâm điểm nổi bật lên dưới nắng, đẹp thật. Anh kia tuy không đẹp trai nhưng với mái tóc bồng bềnh và cặp kính mát, nhìn không kém gì tài tử Charles Bronson. … Nghệ thuật làm cho chuyện đời thú vị. Trình độ nghệ thuật cao càng làm thú vị gia tăng. Muốn đạt trình độ cao, trước hết phải có tầm nhìn tương xứng.

Tầm nhìn bắt đầu từ mắt. Khả năng của mắt, tức là khả năng quan sát, ảnh hưởng trực tiếp đến tầm nhìn. Có những mắt to tròn như bồ câu, như ó điểu, mà nhìn không rõ; lại có những mắt hí, nhưng sắc sảo, thấy được sợi tóc rơi; có mắt lé, thấy rộng, thấy nhiều hơn mắt thường. Về mặt có thể cải thiện nhờ dùng kính là mắt cận thị, viễn thị và loạn thị, loạn sắc. (Ghi chú 1: Người có tâm hồn loạn thị thường sẽ thấy đối tượng trong dạng trừu tượng ‘abtract’. Nếu một họa sĩ không có tâm hồn loạn thị, đừng vẽ abtract, vì sẽ ngây ngô vô nghĩa, cho dù nhìn rất đẹp.) (Ghi chú 2: Trong cõi nghệ thuật, cận thị là biểu tượng cho những người hiểu biết nghệ thuật một cách thiển cận. Trong khi viễn thị, ám chỉ người thiếu tầm nhìn. Cả hai loại người này, nếu tâm hồn không chịu mang kính thuốc, sẽ suốt đời gần cũng không thấy mà xa cũng không.)

Tuy bắt đầu từ mắt nhưng tầm nhìn kết thúc trong tâm trí. Đó là khả năng nhận thức. Nghĩa là, tầm nhìn được đúc kết bởi sở kiến, sở học, sở tài, và sở thích. (Ghi chú 3: Sở không phải sờ. Nếu chỉ sờ kiến, sờ học, sờ tài, sờ thích, thì không thể có nghệ thuật, mà chỉ có nghề thuật.)

Chắc sẽ có một số bạn khi đọc đến đây sẽ tự nghĩ, tầm nhìn nghệ thuật, cái thứ không phải cơm, không phải tiền, không phải tình, biết là gì cho mệt, mất thời giờ.

Đúng, hoàn toàn đúng.

Nhưng muốn ăn cơm ngon, phải có nghệ thuật gia chánh và nghệ thuật ẩm thực. Muốn làm nhiều tiền, phải có nghệ thuật giao tế, nghệ thuật tổ chức, và lẫn lộn đâu đó một nghệ thuật lửa đảo. Muốn có ái tình, dù hạnh phúc trăm năm hay một giờ, phải có nghệ thuật tâm lý, nghệ thuật vật lý, (trong vài trường hợp, cần phải có thêm nghệ thuật đô vật.)

“Phải có nghệ thuật” nghĩa là, tầm nhìn nghệ thuật rất quan trọng, vì nó làm cho nghệ thuật sống bay bổng hơn, sâu rộng hơn, và nhân tính hơn. Tầm nhìn nghệ thuật sẽ cống hiến cho mỗi người những cảm giác và phần thưởng khoan khoái trong đời sống hàng ngày: Như nấu bún bò nước trong, giò heo trắng, thơm ngon hơn bún bò ở quán huế Nam Dao; như đánh phớt một chút phấn trắng lợt lên sóng mũi, khiến cho mỹ nhân có mũi dọc dừa; như vào đám đông ăn nói hấp dẫn mang nụ cười đến cho thiên hạ; nhìn thấy phẩm chất mà không bị lừa lọc bởi giả mạo, giả hình …Nhà văn Neil Gaiman nói, “The world always seems brighter when you’ve just made something that wasn’t there before.” (Dường như cõi sống sẽ luôn luôn tươi sáng hơn khi bạn vừa tạo ra sự việc gì đó, chưa từng có trước đây.) Ở cấp bậc bình thường “chưa từng có” là đối với mình, (có nghĩa, mình đã vượt qua mình một chút. Ở cấp bậc cao, “chưa từng có” thuộc về sáng tạo, như các họa sĩ lập thể vẽ một người có ba bốn mặt.
 
HƯỚNG  NGHỆ  THUẬT
 
Cõi nghệ thuật tuy mông lung nhưng không phải hỗn loạn, càng không phải hỗn mang. Không ai biết được giang sơn của nghệ thuật bao lớn, gồm có những thứ gì, nhưng người ta có thể chọn những hướng đi khác nhau trong nghệ thuật. Đối với những người chọn hướng đi, có thể gọi là những kẻ thám hiểm, muốn khám phá một vùng đất mới hoặc những điều gì mới, nhưng đối với nghệ thuật, những người đó chỉ là những kẻ đi trong đêm tối bất tận. Người này vớ được khúc cây, người kia vớ được viên đá, mỗi người mày mò tìm được một thứ gì để làm đẹp. Với tài năng riêng, người này biến khúc cây thành cây Ỷ Thiên Kiếm, chém sắt như chém bùn. Người kia hóa viên đá thành con mắt của ba chị em mù Graeae trong thần thoại Hy lạp.

Trên đường phiêu lưu theo một hướng lớn, họ sẽ phải chọn một hướng nhỏ hơn, rồi tiếp tục đi, sẽ chọn một hướng nhỏ hơn nữa … Tuy cùng phát xuất, nhưng dần dần, họ tách rời và khác biệt nhau, càng lúc càng riêng rẽ. Cuối cùng, mỗi nghệ sĩ trung thực là nghệ sĩ mang tâm hồn đơn độc. Nếu đi cùng một hướng lớn mà cò khác biệt nhau như vậy, huống hồ chi đi khác hướng lớn. Có thể quả quyết, nghệ thuật chân chính là nghệ thuật khác biệt nhau. Còn nghệ thuật cao kỳ là từ nghệ thuật khác biệt đó biến hóa một cách khác biệt hơn. Quan điểm nghệ thuật cao kỳ sẽ liên quan đến tầm nhìn nghệ thuật thông thiên. (Ghi chú 4: Tầm nhìn thông thiên dành cho những nghệ sĩ tài hoa thượng hạng. Họ có khả năng quan sát toàn thể và chi tiết cùng một lúc và khả năng siêu nhận thức nhạy bén, vượt sâu vào bản sắc của sự vật đối tượng. Thông thường họ nhìn thấy những gì trước đó chưa ai nhìn thấy.)


Sự chọn lựa hướng đi, thoạt nghĩ, tưởng là do hấp lực và bối cảnh bên ngoài, nhưng chính xác hơn, mạnh mẽ hơn, chính là động lực bên trong. Bẩm sinh, mỗi người đều có mầm nghệ thuật, tức là ý muốn làm đẹp. Mầm này lớn lên trong môi trường gia đình, học đường, xã hội, sẽ nẩy nở khác nhau. Sau đó tài năng riêng sẽ nuôi dưỡng những cây này nở hoa, mọc gai, đủ dạng đủ hình. Người khéo tay có thể trở thành nhà điêu khắc, thợ mộc, họa sĩ… Người khéo miệng có thể trở thành luật sư, mục sư, thầy giảng, ca sĩ… Người khéo chữ có thể thành nhà văn, nhà thơ, nhà báo… Rồi sự phức tạp sẽ biến hóa nghệ thuật trong chi tiết, ví dụ như người khéo tay và khéo luôn chân, có khả năng trở thành người hát xiệc. Khéo tay, khéo miệng, có thể làm ảo thuật. Khéo miệng và khéo lừa có thể làm chính trị gia. Người khéo chữ mà dở chân, có khả năng trở thành nhà văn, chuyên ngồi viết lách. … Dĩ nhiên chọn lựa hướng nghệ thuật là một cấp bực cao hơn những nghề nghiệp bình thường, nhưng bắt nguồn từ những động lực đã thành hình đó, người nghệ sĩ sẽ cảm nhận được hướng đi phù hợp với sở học và sở thích. (Những ai chọn lựa hướng nghệ thuật vì những lý do khác, nhất là lý do bắt chước, thường sẽ không có kết quả.)
 
PHẠM  VI  NGHỆ THUẬT
 
Không một ai có thể hiểu biết hoặc thực hành hết các diện, nhất là các điều bí ẩn, của nghệ thuật. Mỗi người thưởng ngoạn cũng như sáng tác chỉ có thể chiếm hữu một phạm vi nào đó mà thôi.

Nói đến phạm vi này là nói đến từ một cá nhân mở rộng ra, sâu hơn, cao hơn, lớn hơn, có vẻ như mở mãi đến vô tận, nhưng không phải, vì muốn mở chậm, mở nhanh, mở bao nhiêu tùy ý, nhưng tắt thở là hết mở. Phạm vi nghệ thuật của một người bị giới hạn tuyệt đối bởi thời gian người đó sống.

Giới hạn tương đối là sở thích: Nghệ thuật là vợ hoặc chồng lẻ (đôi khi trở thành chính, nhất là những người độc thân), sau khi chọn lựa, người nghệ sĩ chân chính sẽ trung thành đến răng long tóc bạc. Nếu không hợp sở thích, thí làm sao tránh khỏi ly thân. (Trong nghệ thuật ít có ly dị, rất nhiều trường cảnh ly thân. Lâu lâu, vẽ một bức tranh. Thỉnh thoảng làm bài thơ. Đang viết truyện ngắn, có ai rũ đi ăn tiệc, nhảy đầm, là tạm biệt chữ nghĩa. Vẫn là họa sĩ, thi sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ, nhưng không có tác phẩm xứng đang với tên gọi, hoặc, đúng hơn, không có phẩm chất kẻ sĩ.)

Giới hạn tương đối là sở học: Kiến thức là phương tiện, hiểu biết là sức mạnh. Có sức khỏe để sử dụng  phương tiện tốt, hiện đại, và hữu hiệu, thì mới có thể khai phá, khuếch trương phạm vi rộng lớn, vừa sâu vừa cao. Quan trọng nhất trong sở học là kinh nghiệm. Không chỉ kinh nghiệm đã từng trải qua chuyện này, việc kia, (kinh nghiệm sống), mà còn là  kinh nghiệm về phương tiện sử dụng và kinh nghiệm về hiệu quả của sức mạnh hiểu biết, (kinh nghiệm về kinh nghiệm, tức là kinh nghiệm tự thức.) Gần giống như người làm vườn, biết mùa nào nên trồng hoa nào; biết cây nào cần trồng ở hướng nào; nhưng ông ta biết luôn ưu điểm khuyết điểm của cái cào, cái xẻng, cái cuốc và biết rõ bắp thịt và xương sống ở tuổi ba mươi khác với bảy mươi.

Giới hạn tương đối là sở tài: Nếu có tiền mua tiên cũng được thì có tài không ai theo kịp. Khả năng làm đẹp, làm hay, làm gia tăng ý nghĩa của mỗi người là đặc thù, gọi là tài năng. Tùy vào tài năng lớn hoặc nhỏ; dài hay ngắn, cao hay thấp mà phạm vi nghệ thuật sẽ thể hiện tương xứng. Tài năng do bẩm sinh nhưng hoàn thành bởi luyện tập. Anh mỹ đen dẫn đầu đội bóng rổ chuyên nghiệp, lúc còn nhỏ đã giồng banh chạy khắp đường phố, khắp sân chơi. Vào tiểu học chơi banh giỏi, được tuyển lên trung học; chơi banh giỏi, được tuyển lên đại học; tiếp tục chơi banh vượt trội, được tuyển vào hàng cao thủ nhất của các đội banh chuyên nghiệp.

Giới hạn tương đối là sở dụng: Có tài không chưa đủ. Cần phải biết tài mình đến đâu trong thực tế (không phải trong ảo tưởng); cần biết tài này dùng để làm gì. Một người giỏi leo cây, nhưng ghi danh đi bơi thi, e rằng khó được toại nguyện. Một người giỏi làm hề, khi thất nghiệp, xin làm phu khóc mướn trong đám tang, làm sao thành công? 

NHẬN THỨC  VÀ  SIÊU  NHẬN  THỨC  NGHỆ THUẬT
 
Nhận thức hiểu một cách bình thường là cảm nhận có ý thức. (Vì có cách hiểu cao kỳ hơn, do các nhà tư tưởng suy luận và quy định giá trị cho vai trò nhận thức, một cách khó hiểu. Thường dân như chúng ta chưa cần tìm đến.)
Xem bức tranh, nhận thức được điều gì? Nỗi tuyệt vọng của người da đen bị kì thị. Siêu nhận thức cho ta hiểu điều gì? Đối với da trắng cực đoan, da đen da vàng đều là da màu. Nhắc nhở, chúng ta, không phải da trắng, dù da trắng ôn hòa.

Kilroy J. Oldster nói, “Bộ não con người hoạt động như một bộ đơn thuần chuyển đổi năng lượng. Các giác quan luôn luôn cảnh giác khi ta gặp nguy hiểm. Ngược lại, khi tương đối an toàn và bảo đảm, các giác quan có khuynh hướng ơ hờ, khiến cho thế giới trôi qua như giấc mơ mờ ảo bao gồm những ấn tượng vô nghĩa. Khi nội tâm rối loạn, khiến năng lượng trào lê não. Một bộ não biến động tự ý là một bộ não nghệ thuật. Sẽ hữu ích cho sáng tác bất cứ khi nào người viết bị đau buồn hoặc cảm nhận nội tâm có gì đặc biệt. Chấn thương đánh thức chúng ta khỏi cuộc sống an thần. Não được kích hoạt để thể hiện mức nhạy cảm cao độ hơn mức cảm nhận kết hợp, việc này tạo cho cuộc sống tràn ngập sự đa dạng của âm thanh, màu sắc, cảm giác xúc giác, vị giác và mùi hương,” Đoạn văn trên phác họa hệ thống giác quan và não bộ sinh hoạt liên hệ hỗ tương để cho con người cảm nhận những giá trị chung quanh đời sống. Những cảm nhận này thuộc về nhận thức. 

Nhận thức là nhìn thấy rõ ràng sự việc gì đó bằng tinh thần. Thu thập sự tình, đối tượng qua các giác quan bên ngoài, rồi phác họa thành hiểu biết hoặc được kinh nghiệm hỗ trợ để cảm nhận ý nghĩa. Siêu nhận thức xuất hiện như một sự nhạy cảm, một tương thông sâu sắc hơn. Siêu nhận thức là một phần của nhận thức, một phần tinh anh. Như một thám tử dày kinh nghiệm và có nội lực đã phá nhiều vụ án khó, bước vào hiện trường nơi án mạng xảy ra. sau khi đi lòng vòng tìm kiếm chứng cớ với đồng nghiệp. Ông nhận thức được nạn nhân bị giết bởi một nguyên nhân không thể tìm thấy. Thân thể nguyên vẹn. Thậm chí, mặt mày tươi tỉnh. Trong lúc đang điều tra, bất chợt ông nhìn thấy cây kim may nhỏ nằm trong góc tường. Nhìn đầu kim có chất đen, ông hiểu ngay nguyên cớ vì sao cô ta đã chết.

Sự phối hợp giữa nhận thức và siêu nhận thức xác định tầm nhìn nghệ thuật của một người. Dĩ nhiên, một người sống không nhất thiết phải biết nghệ thuật, như những sinh vật khác, đâu cần nghệ thuật, vẫn sống rồi chết. Nhưng nếu có tầm nghệ thuật cao, trước khi chết, người đó mọc đôi cánh vô hình.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.