Hôm nay,  

Trận chiến thầm lặng

03/04/202221:09:00(Xem: 3119)

Truyện ngắn

bad secretary

 

Từ hơn hai năm nay, kể từ khi đại dịch Covid-19 hoành hành, như mọi người lớn tuổi, tôi ít khi ra ngoài nhà, trừ phi bắt buộc đi mua chút đồ ăn, đi bác sĩ, đi chích ngừa… Phần lớn thời gian là cách ly với mọi người, một hình thức như là mort sociale. Nhưng không mình vẫn sống nhăn và phải sống để thấy « thương hải biến vi tang điền ».

 

Tôi có nhiều thì giờ rảnh, ngày rộng tháng dài, tôi lang thang vào Internet, đi từ Âu sang Á, về Việt Nam xem Việt Cộng tạo dựng vụ bán test-kit Việt Á tịnh thất Bồng Lai. Tôi sang Nam Phi coi omicron hoành hành dữ dội ra sao, rồi trở lên giường, dựa tường mở tablette đọc hồi ký miền nam của anh Nguyễn Tài.

 

Bên lề cuộc chiến

Nỗi đau trên chiến trường

Lạc mất nhau rồi

Ngày đầu cuộc chiến

Những người lính cũ, v.v…

 

Càng đọc tôi càng thấm thía, chinh chiến điêu linh, trong cuộc chiến dài dằng dặc ấy, toàn dân tham chiến, cuộc chiến điêu linh ở chỗ chúng ta vừa thắng vừa thua, và bên địch cũng vừa thua vừa thắng. Chúng ta thua nên chúng ta không muốn sống với CS, chúng ta chạy tản mát ra ngoài Việt Nam, ra sống định cư rải rác khắp mặt địa cầu. Còn phe CS ư? Chúng bảo là « đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào » rồi chúng cũng muốn loay hoay « cút » theo Mỹ, bám theo Ngụy mới lạ kỳ!

 

Tôi nhớ mãi khi xưa trước 1975 có một chị bạn dạy học cùng trường, năm 1970 chị bỏ đi mất dạng. Sau 1975 về lại Sài Gòn, về làm trưởng phòng giáo dục quận I đô thành. Chị thường lên lớp chúng tôi trong những buổi học chính trị mở đầu. Ngại thì có ngại, nhưng vì là bạn cố cựu xưa, nên có lần có một anh bạn cắc cớ hỏi chị là:

 

– Chị Dung này, chị vô đảng chưa ?

 

– Anh hỏi chi vậy?

 

– Ý tôi muốn khuyên chị nếu chị vô đảng rồi, thì chị nên xin đảng cho chị một cái vé máy bay khứ hồi, chị sẽ bay đi tham quan sang Mỹ, Tây Đức, Canada…

 

– Để làm chi?

 

– Để xem tụi tư bản nó giẫy chết ra làm sao!

 

– Anh ăn nói chi mất lập trường!

 

– Úi chao, tụi tôi có lập trường đâu mà mất!

 

Ôn lại những kỷ niệm xưa, tôi lại cười một mình dù đã vùi đầu vô trong chăn ấm mùa đông xứ người. Tôi cũng chạnh lòng thương Dung, vì trước ngày tôi bỏ Việt Nam ra đi, có lần Dung đã tâm sự vụn cùng tôi là, Dung rất muốn cho con gái Dung đi du học ngoại quốc, vì giáo dục hậu chiến lộn xộn quá!

 

Rồi bẵng đi hàng bao năm lận đận, như đã nói, tôi sang Pháp đoàn tụ gia đình.

 

Chồng tôi, một chiến binh miền nam, sau ngày quốc hận, đi học tập cải tạo 5 năm vất vả khổ nhục, về lại thành phố, loay hoay tất bật lắm nỗi đoạn trường, vượt biên, sau cùng sang Paris và may mắn là mang được cả các con theo.

 

Năm 1985 đặt chân lên xứ người, tôi mày mò làm nhiều nghề để cùng chồng nuôi con, có lúc tôi đi bán bông, tưởng làm cô hàng hoa thì khỏe ru, nào ngờ nó vất vả quá, không chỉ bán, còn lau chùi, thay nước các bình hoa lớn và nặng, mang vác cây thông Noël è cổ trong mùa lễ Noël và năm mới dương lịch. Tiệm bán bông không có lò sưởi, nhà vệ sinh cũng để chứa hoa, ôi chao là khó khăn, giờ vắng khách, ngồi uốn dây kẽm kết hoa vòng. Sau một mùa Giáng Sinh, tôi phải vô nhà thương vì trẹo chân.

 

Khi rời bệnh viện, tôi làm việc khác, đi gác áo quần ở hồ bơi, lúc đó tôi cổ hủ và quê ơi là quê, nhìn thấy tây đầm trần truồng đi qua đi lại hà rầm trước mặt, tôi lại có ý đổi nghề, hồ tắm cũng ướt át trơn trượt dễ té lắm.

 

Quả thật là tôi không thể làm nghề tay chân cật lực ở xứ sở người ta với cái vóc dáng còm cõi nặng 40 kí lô, cao không quá 1m50.

 

Tôi không chê nghề mà nghề chê tôi.

 

Tôi quay ra đi học, vì hồi đấy nhà nước Tây còn khá giả, nên nếu tôi là mẹ một gia đình đông con mà đi học sẽ có trợ cấp khá, được đi học được trả lương mà không đi học thì dại quá. Thế là tôi cắp sách về lại trường lớp.

 

Sau 3 năm dùi mài kinh sử, tôi vẫn phải đi chệch sang một bên, tôi vẫn không được gọi làm cô giáo như ở bên nhà, tôi được gọi làm thư ký phụ tá cho bộ đại học, collège de France.

 

Làm việc ở môi trường đó, tôi tiếp xúc với nhiều giáo sư từ mọi xứ sở đến, tôi cũng gặp cơ man là các em sinh viên mọi miền mọi nước. Sinh viên Tàu đông nhất, sinh viên Việt Nam cũng đến nhiều, chỉ hầu hết là các em sinh viên miền Bắc và miền Bắc Trung phần, lác đác rất ít, có thể nói đếm trên đầu ngón tay là sinh viên Việt Nam miền Nam.

 

Sinh viên miền Bắc phần lớn con em cán bộ đảng viên cao cấp, tôi đã là thầy một thời, tôi không chấp nhất trẻ con, nhưng tôi buồn buồn cho phần thiệt thòi của các em học sinh miền Nam thân yêu của tôi.

 

Tôi cứ ngồi đó, ở văn phòng campus France nhận hồ sơ du học và chờ, chờ mãi, 1 năm, 2 năm, 3 năm mà rất ít, rất ít, họa chừng lắm mới có một em sinh viên miền Nam, còn toàn là người của phe thắng cuộc. Ngày nào, ra khỏi sở tôi cũng ngao ngán thở dài: « Các em ơi, bây giờ em ở đâu, Bến Hải hay Cà Mau góc biển hay rừng sâu? »

 

Tôi nhớ học trò của tôi lắm, nhớ mặt và nhớ cả họ tên, nhớ cả đứa giỏi và đứa dốt. Nhớ cả đứa chăm chỉ và đứa lười học. Lòng buồn rười rượi, chán mớ đời, tôi rảo bộ ra phố Tàu Quận 13 ăn phở. Khi buồn tôi thích ra phố tàu ăn phở. Tiệm phở Á Đông có đầy sinh viên phục vụ chạy bàn. Mà lạ lùng, nơi đây chạy bàn cũng toàn là sinh viên Việt Cộng, nói như hát, nói líu lo, có lúc gay gắt khó hiểu, chạy trời không khỏi nắng, tôi cũng gọi phở và café sữa, thêm một ly chè 3 màu. Ăn cho đỡ buồn mà! Xung quanh có nhiều tiếng động, nhưng tôi vẫn tò mò nghe được hai cô đang tâm sự với nhau, tôi nghe lóm:

– Này, Tú ơi, mày làm tiệm này đến bao giờ?

 

– Mày sắp nghỉ việc, học thi hả?

 

– Tao thôi làm, vì tao không cần làm nữa, mẹ tao mới cho tao tiền, làm cực quá.

 

– Sộp không?

 

– Khá lắm, bà via mới bán được cái nhà.

 

– Bà via mày mới vào Nam mà đã có nhà bán à?

 

– Chậc, thì nhà cơ quan cấp cho ông bô tao ở Lê Thánh Tôn, bà via tao xin được hóa giá, lấy được sổ đỏ, bà ra Gò Vấp mua căn nhà nhỏ, dư ra 1500 cây, bà cho tao chút ít, còn đang lo chuyển sang anh tao! Bà bán nhà lớn mua 2 nhà nhỏ.

 

Hai cô lại bá vai bá cổ nhau, sầm sì, sầm sì tiếp. Tôi không còn nghe rõ, tôi choáng váng, tụi nó trắng trợn thú tội ăn cướp nhà cửa, tiền của nhân dân!

 

Xoảng!!!

 

Tôi ngất ngư làm rớt ly chè ba màu, tiếng thủy tinh vỡ sắc cạnh, đau nhói.

 

Tôi hơi luống cuống, à mà gia đình nào có ông bố bà mẹ kiếm tiền nhanh và nhiều thế thì con cái sướng thật, nhưng hỡi ôi, đó lại là những đồng tiền oan nghiệt, những đồng tiền xương máu của dân miền nam thân yêu!

 

Chúng ta đau buồn thì giờ phải làm sao? Chúng ta có quyền lực gì đâu mà ngăn chặn?

 

Họ, bọn cán bộ ăn trên ngồi chốc, lúc nào chúng cũng là kẻ cướp hiện nguyên hình. Từ khi tôi sinh ra đời, năm 1945, chúng đã là kẻ cướp, chúng cướp chính quyền của chính phủ Trần Trọng Kim. Năm 1975 chúng tràn vào miền nam, ỷ thế ngoại cường thu xếp trao đổi, chúng lên chân cướp bóc tiền bạc, của cải của miền Nam chở ra miền Bắc. Chúng đuổi dân thành phố đi kinh tế mới để cướp nhà kiểm kê tài sản để cướp vàng cướp tiền chúng đánh tư sản, tổ chức vượt biên chính thức. Ngày nay, thế kỷ 21 này, nhờ có tiền vàng đã ăn cướp được của miền Nam, chúng mở cửa làm kinh tế thị trường.

 

Văn hoá thị trường. Tôn giáo thị trường. Cái gì cũng thị trường hết, chúng nhắm tới cướp lớn, cướp khoa bảng, cướp trí tuệ! Cướp lớn, cướp một cách vô tri thức và vô đạo đức Chúng ráo riết gửi con cái đi du học là thể hiện tất cả âm mưu cướp lớn, để xem chúng ăn cướp được những gì? Và những gì không bao giờ ăn cướp nổi!

 

Thưa bạn, tôi chỉ nhớ loáng thoáng, hình như Albert Einstein, đã nói là « Người lương thiện và thông minh thì không là Cộng Sản, người Cộng Sản thông minh thì không lương thiện, người Cộng Sản lương thiện thì không thông minh ».

 

Ông tác giả này nói hơi vòng vo, tôi chỉ muốn nhớ đại khái và giản dị như ông cha ta khi xưa thường bảo: « Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. »

 

Ý là còn Cộng Sản thì muôn đời còn là xấu, xấu hết. Thêm nữa. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã định nghĩa: « Cộng sản là một loại cỏ dại, độc hại, nó mọc ở đâu, nó làm hư đất ở đó và làm chết hết những cây cỏ mọc xung quanh nó. »

 

Thế thì phải làm sao để nhổ cỏ độc hại hỡi trời? Nó, chúng nó, đang nẩy mầm mọc quanh đây. Tôi có ý ra tay làm cỏ dại… cỏ hại thì đúng hơn là cỏ dại. Việc này so ra không khó lắm với tôi. Tôi làm có tí chút, so ra chả đáng gì bạn ạ. Tôi có thể phá đám phá đám tụi Việt Cộng con khi tôi nhận hồ sơ của sinh viên Việt Nam du học mang đến nạp ở campus de France. Tôi là phụ tá bà tổng thư ký Bonnet, tôi có thể vứt bỏ luôn từng xấp hồ sơ của sinh viên miền Bắc vào máy cắt vụn giấy, rồi ấn nút, là xong, cho khỏi ngứa mắt.

 

Nhưng suy nghĩ lại, rồi họ sẽ tìm ra tôi thủ phạm. Tôi đâu phải 5, 7 tuổi, dù lòng căm ghét lên ngút trời, tôi lặp lại, tôi rất ghét họ, ghét từ thời Cộng Sản chập chững thời ông Hồ Chí Minh. Họ đã thủ tiêu cha tôi! Mẹ tôi góa bụa liều mạng cõng tôi, khi đi xe, lúc đi bộ, vượt ngày, vượt đêm từ Hà Nội vào Sài Gòn. Mẹ tôi tự xoay sở một mình buôn bán nuôi tôi lớn. Tôi được mẹ cho đi học các trường rất nổi tiếng và khi tốt nghiệp xong chương trình trung học, tôi đã có mảnh bằng tú tài Pháp. Tôi là người Việt Nam, lai Pháp ¼, tôi mang tên họ nửa Tây nửa tên thánh Marie le Témoin. Đúng là Madame le Témoin, tôi đã sinh ra và đã làm chứng cho bao nhiêu sự việc bất công trong cuộc đời này.

 

Mới lâm trận, tôi áp dụng chiến thuật bombarder tôi giở một đống hồ sơ, xem từng mặt đương sự một, mặt mũi các em cũng sáng sủa, đúng là những đứa trẻ sinh ra đời không được chọn cha mẹ, chúng đẹp và đặc vẻ Việt Cộng, vẻ Việt Cộng thì tôi không biết nói làm sao cho dễ hiểu, nhưng đặc biệt đó toàn là con của những ông to bà lớn, con ông tỉnh ủy, con ông bí thư thành ủy, con bà chủ tịch, huyện ủy cao cấp… toàn là miền ngoài, chẳng có một em miền Nam hay một em học sinh nào của tôi được lọt vô sổ vàng!

 

Cha mẹ chúng đều xin cho con đi du học tự túc. Vì đi theo diện học bổng du học, chúng hình như không đủ điều kiện. Chính phủ Pháp hỗ trợ sinh viên ngoại quốc từ 30 đến 50% tiền chỗ ở, tài trợ 60% tiền học phí và y tế. Gần như toàn bộ du học sinh Việt Nam sang Pháp từ 1976 đến 1996 đều là sinh viên du học tự túc.

 

Không hiểu sao họ nhẩy lên và đẩy lên quá mau. Nhập cuộc, lâu lâu 1, 2 tháng, tôi rút gọn một hồ sơ như rút loto, nguyên tập giấy đi vào máy cắt, tan nát, tan nát như họ đã làm tan nát cuộc đời của bố tôi khi xưa, tan nát như họ đã làm tan nát bao nhiêu binh đoàn thiện chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tan nát như họ đã làm tan nát bao nhiêu gia đình của xã hội miền Nam thân thương của chúng tôi!

 

Xong việc, tôi quên bẵng, nhưng độ chừng nửa năm sau lại nguyên cái tập hồ sơ ấy xuất hiện. Tôi cáu tiết, thẳng tay cho vào placard cao sát trên trần nhà, đóng ập lại, cho mày mất đường ra, đáng đời con thòi lòi sáu mắt!

 

Rồi bao nhiêu lần coi kỹ một số hồ sơ, tôi thấy bắt đầu khinh bỉ và nhờm tởm. Hầu hết toàn xin campus France đến du học tự túc, nghĩa là ngoài toàn bộ hồ sơ hành chánh, họ đính kèm giấy tờ tài khoản ngân hàng, với những con số dài hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn.

 

Quái quỷ ở Việt Nam cũng có máy in tiền euro chăng?

 

Bà Bonnet xoa đầu tôi:

 

– Ôi, mày lại nổi cơn điên, mày là người Việt Nam mà mày không thích cho dân Việt Nam mày giàu có sao?

 

Rồi bà ngó lơ qua cửa sổ, kể lể:

 

– Hồi xửa xừa xưa ba và má tao cũng sang Việt Nam làm việc, tao còn nhiều hình ảnh kỷ niệm.

 

Xửa xừa xưa đó, gia đình bà có lẽ là thực dân, nhưng đó là chuyện riêng của bà, chuyện riêng của tôi lại khác. Khác, giống, thì chúng ta cứ phải làm việc đi, rồi cuối tháng sẽ được lãnh lương. Tôi cúi xuống cười thầm, dĩ nhiên tôi cần làm việc để có lương, và còn làm việc riêng kín đáo của tôi nữa, việc này quý hơn việc lãnh lương.

 

Khoảng thời gian 1985 đến 1995 tổng thống Mitterand ưu ái cho khá nhiều dân Arabe nhập tịch, rồi sự việc tòa đại sứ Việt Nam ở Pháp đòi sinh viên Việt Nam du học phải nộp cho tòa đại sứ một nửa số học bổng Pháp chu cấp cho mỗi sinh viên, đoàn sinh viên phản đối phía Việt Nam, họ dọa sẽ không cho sinh viên hồi hương sao đó. Vin vào cớ đó, một số em xin ở lại định cư ở Pháp.

 

Nhiều việc xáo trộn xẩy ra giữa tòa đại sứ Việt Nam và campus, nhưng rồi mỗi ngày tôi và bà Bonnet vẫn ngồi cùng nhau cứu xét từng chồng hồ sơ xin du học, tôi nhìn bà, bà làm việc chăm chỉ và tốt bụng, bà là một người Pháp rất tốt bụng như nguyên thủy và bẩm sinh, nhưng cũng có nhiều giấy tờ nguyên bản dịch ú ớ, nên bà hiểu lơ mơ đại khái, bà có hỏi tôi, tôi cũng không hứng thú mấy, giải nghỉa loăng quăng.

 

Từ cái loăng quăng đó, tôi tìm ra một cách thức tấn công mới, tôi bắt đầu chiến dịch bắn sẻ, lẻ tẻ. Nghĩa là thỉnh thoảng, mỗi hồ sơ, tôi rút ra một tờ, một tờ thôi, nắm vô tình tờ nào tôi vất đi tờ đó. Đa số hình như bị xé đi giấy của tài khoản ngân hàng, tôi không ưa những tiền bạc gian lận.

 

Nhưng rồi lại bổ túc, thì loay hoay máy bay qua lại cũng ba đến sáu tháng. Sáu tháng là trễ một niên khóa. Hồ sơ lại phải chờ cứu xét vào năm học sau. Chẳng ai lưu tâm tìm hiểu tại sao, vì giấy tờ hành chánh phức tạp rơi rớt là chuyện thường. Đặc biệt thủ tục hành chánh ở campus rất nặng nề và phiền toái.

 

Thời gian này tôi loại bỏ nhẹ nhàng địch thủ liên tiếp, hữu hiệu, tuần tự, kéo dài cuộc chiến đơn phương:

 

Tháng janvier, tôi rút ra vài mẫu đơn visa xin gia hạn. Tháng mars, tôi thảy đi ít bản sao hộ chiếu so với hiệu lực visa. Tháng mai, hủy đi một số hồ sơ không có bằng cấp đính kèm. Tháng juin tháng juillet tháng août, campus nghĩ hè. Tháng septembre, khai trường, hồ sơ cần kiểm điểm lại từ đầu. Tháng oct, nov, déc, chộn rộn lễ Giáng Sinh và năm mới.

 

Khi những ngày lễ cuối năm tới liên tiếp và tưng bừng chộn rộn, thì hồ sơ du học có thê bị ném đi rất nhiều, như ném giấy lộn vô thùng rác, khỏi cần sử dụng ấn nút máy cắt vụn. Tại sao? Vì là vì giấy gói quà tặng ở đâu cũng nhiều, quá nhiều, làm tôi say máu như say champagne brut!

 

Nhưng khi mình say máu, làm quá sức, thì dễ bị phát hiện. Tôi lờ mờ linh cảm sau một mùa Noël, campus nghi ngờ ra kẻ chủ mưu xáo trộn và vất bỏ giấy tờ của văn phòng.

 

Năm 2008, tôi nhận được giấy thuyên chuyển nhiệm sở, tôi về làm việc cho croust ở cité université 5. Campus chẳng phiền hà ai một câu! Họ thản nhiên mua cho tôi quà tặng khi tiễn tôi sang làm việc bên căng tin là quán ăn sinh viên.

 

Ở nơi làm việc mới, môi trường mới, tôi không gặp nhiều sinh viên Việt Nam nữa. Tôi gặp các em của đủ mọi quốc gia. Tôi ít việc làm hơn, có lúc ngồi chơi games như con nít, một đôi khi cũng có một băng sinh viên Việt Cộng đi cùng nhau vào quán ăn, họ nói nói cười cười khá ồn ào.

 

Nghe có người Việt nói tiếng Việt là tôi ngửng đầu lên ngay. Cứ liệu hồn đó! Tôi còn sống là còn nhiều phương cách sáp trận!

 

Cái hận ngàn đời kể cũng khó hóa giải! Việt Nam ơi, tôi vẫn thấy tập đoàn Cộng Sản vẫn còn đó, chúng vẫn mỗi ngày mỗi làm tệ hại hơn, đau khổ hơn cho quê hương cho dân tộc tôi. Vì sao ư? Vì cái kẻ tội đồ vẫn cứ nằm chình ình ra đó.

 

Chúc Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.